Xem thêm bài viết này, thu thập trên facebook:
Huyền thoại giáo dục Phần Lan
Hồ Anh Hải
Giáo
dục Phần Lan bắt đầu được dư luận quốc tế quan tâm từ sau khi Tổ chức
Hợp tác Kinh tế và Phát triển OECD tổ chức các kỳ thi PISA (Chương trình
đánh giá học sinh quốc tế (Programme for International Student
Assessment). Thành công xuất sắc của học sinh Phần Lan trong các kỳ thi
này đã làm cả thế giới ngạc nhiên.
PISA là bài kiểm tra kiến thức
của các trẻ em 15 tuổi, thực hiện 3 năm một kỳ tại hơn 40 địa điểm cho
gần nửa triệu HS trên toàn cầu. PISA mới tiến hành được 4 kỳ
(2000-2003-2006-2009) thì Phần Lan giành được vị trí thứ nhất trong 3 kỳ
đầu. Tại PISA 2009 họ đứng thứ hai về khoa học, thứ ba về đọc hiểu và
thứ sáu về toán học.
Sau một thời gian say sưa tranh
cãi về cuốn Chiến ca của Mẹ Hổ, cuối cùng phương pháp giáo dục của Phần
Lan lại đang trở thành một chủ đề nóng ở Mỹ sau khi nước này chiếu bộ
phim tài liệu Chờ đợi Siêu nhân1 , vạch ra các vấn đề tồn tại của giáo
dục công lập Mỹ, có so sánh với Phần Lan. Báo The Economist của Anh Quốc
còn kiến nghị các nhà lãnh đạo châu Âu tạm ngừng công việc để đến Phần
Lan dự các giờ học cấp phổ thông, tìm hiểu xem vì sao học sinh nước này
giỏi thế. Người Trung Quốc càng hết lời ca ngợi giáo dục Phần Lan. Một
bà mẹ đem hai con sang Phần Lan sống mười mấy năm, tự mình trải nghiệm
thực tế giáo dục từ vườn trẻ đến đại học của xứ này, sau đó nhận xét: So
với Phần Lan thì giáo dục Trung Quốc chỉ là một bãi rác lớn. Cần
nhấn mạnh: người Phần Lan không hề coi trọng mọi kỳ sát hạch học sinh,
kể cả PISA, họ không bao giờ mở các lớp chuyên để đào tạo “gà nòi” đi
thi PISA như ở một số nước khác. GS Pasi Sahlberg, nhà giáo dục nổi
tiếng, Tổng Giám đốc Trung tâm Luân chuyển và Hợp tác quốc tế Phần Lan
(National Centre for International Mobility and Cooperation, CIMO) nói:
“Chúng tôi chuẩn bị cho trẻ em học cách để học chứ không phải học cách
để làm một bài kiểm tra. Chúng tôi không quan tâm nhiều tới PISA. Nó
không phải là thứ chúng tôi nhắm tới”.Chính người Phần Lan cũng không
hiểu tại sao HS họ lại chiếm vị trí hàng đầu trong các kỳ kiểm tra PISA,
bởi lẽ họ đâu có quan tâm gì tới việc xếp hạng. Nhưng khi các đoàn cán
bộ giáo dục từ khắp thế giới kéo đến Phần Lan tìm hiểu kinh nghiệm dạy
và học của xứ này thì họ mới để ý tới chuyện ấy. Ngành du lịch Phần Lan
cũng khởi sắc nhờ thành tích của ngành giáo dục.
Triết lý giáo dục đúng đắn
Giáo
dục Phần Lan vận hành theo một triết lý (tư tưởng) giáo dục độc đáo,
thể hiện ở quan điểm đối với HS và giáo viên: hai chủ thể quan trọng
nhất này của nhà trường phải được quan tâm và tôn trọng hết mức.
GS
Sahlberg nói: “Chúng tôi không tin vào thi cử, không tin rằng có một kỳ
thi thống nhất là việc tốt. 12 năm học đầu tiên trong đời HS chỉ có một
kỳ thi duy nhất vào lúc các em đã ở độ tuổi 18-19, đó là kỳ thi trước
khi vào đại học. Nhờ thế thầy và trò có nhiều thời gian để dạy và học
những gì họ ưa thích. Các thầy cô của chúng tôi tuyệt đối không giảng
dạy vì thi cử, HS cũng tuyệt đối không học vì thi cử. Trường học của
chúng tôi là nơi học tập vui thích 100%. Ưu điểm của chế độ học tập ở
Phần Lan là ươm trồng tinh thần hợp tác chứ không phải là tinh thần cạnh
tranh. Chúng tôi không lo HS sau này sẽ cảm thấy sợ hãi khi bước vào xã
hội đầy cạnh tranh”.
Sự ưu ái HS thể hiện ở chỗ
ngành giáo dục phải làm cho nhà trường trở thành thiên đường của trẻ em!
Muốn thế người Phần Lan đã hủy bỏ mọi chuyện khiến lũ trẻ đau đầu nhức
óc như cạnh tranh (hoặc dưới mỹ từ “thi đua”), xếp hạng giỏi kém trong
học tập và các kỳ sát hạch thi cử. Ở cấp tiểu học hoàn toàn không có
kiểm tra kiến thức. Nhiệm vụ của giáo viên là làm cho HS hào hứng học
tập, say mê hiểu biết, quan tâm tập thể và xã hội. Tóm lại, HS không
phải chịu bất cứ một sức ép nào trong học tập.
GS Sahlberg
nói: “Chúng tôi không tin vào thi cử, không tin rằng có một kỳ thi
thống nhất là việc tốt. 12 năm học đầu tiên trong đời HS chỉ có một kỳ
thi duy nhất vào lúc các em đã ở độ tuổi 18-19, đó là kỳ thi trước khi
vào đại học. Nhờ thế thầy và trò có nhiều thời gian để dạy và học những
gì họ ưa thích. Các thầy cô của chúng tôi tuyệt đối không giảng dạy vì
thi cử, HS cũng tuyệt đối không học vì thi cử. Trường học của chúng tôi
là nơi học tập vui thích 100%. Ưu điểm của chế độ học tập ở Phần Lan là
ươm trồng tinh thần hợp tác chứ không phải là tinh thần cạnh tranh.
Chúng tôi không lo HS sau này sẽ cảm thấy sợ hãi khi bước vào xã hội đầy
cạnh tranh”.
Luật pháp Phần Lan quy định không được dùng
cách xếp hạng hoặc cho điểm để đánh giá các HS trước lớp 6. Khi các thầy
cô muốn bình xét năng lực và biểu hiện của HS nào đó thì họ phải dùng
văn bản ghi lại sự đánh giá, có thuyết minh cặn kẽ, chứ không được đơn
giản dùng điểm số hoặc thứ bậc xếp hạng để bình xét. Bởi lẽ mỗi HS đều
có sở trường của riêng mình, giáo viên chỉ có thể thông qua nhiều hình
thức hoạt động để tìm hiểu HS và khai thác phát huy tiềm năng của các
em.
Có người cho rằng trong môi trường không có so sánh,
không có cạnh tranh, không có sát hạch thi cử thì HS sẽ không có động
lực để học tập. Thực ra HS Phần Lan vẫn có thi đại học, kỳ thi duy nhất
sau 12 năm học, cạnh tranh cũng rất quyết liệt, nhưng khi ấy HS đã
trưởng thành. Người ta cố gắng không để HS cạnh tranh với nhau quá sớm.
Các nhà trường ở châu Á cạnh tranh với nhau rất gay gắt, đó là do giáo
viên, phụ huynh, HS và mọi người luôn so bì lẫn nhau. Người Phần Lan
không làm như vậy, họ trau dồi cho HS tinh thần Hợp tác quan trọng hơn
cạnh tranh, nhấn mạnh ở cấp mẫu giáo và trung tiểu học lại càng cần tạo
ra bầu không khí không có cạnh tranh. Đây là một ưu điểm của chế độ giáo
dục Phần Lan.
Một nhà tâm lý học từng nói: “Hôm nay HS
biết hợp tác với nhau thì ngày mai họ sẽ có năng lực cạnh tranh”. Muốn
giỏi cạnh tranh thì trước hết phải biết mình, rồi tìm hiểu người khác.
Biết mình để tự tin. Biết người, tức biết đối phương, là để hiểu được ưu
điểm của họ; điều ấy thực hiện được trong quá trình hợp tác với họ, qua
đó sẽ có được năng lực cạnh tranh. Trau dồi năng lực sáng tạo trong môi
trường chan hòa tình người thì tốt hơn trong môi trường cạnh tranh khốc
liệt, vì khi ấy người ta không muốn chia sẻ kinh nghiệm cho người khác,
và cũng không muốn mạo hiểm, như vậy sao có thể có được sức sáng tạo.
Vì thế người Phần Lan chủ trương HS học hỏi lẫn nhau, chia sẻ với nhau
thành công của mình.
Người Phần Lan trau dồi cho
HS tinh thần Hợp tác quan trọng hơn cạnh tranh, nhấn mạnh ở cấp mẫu giáo
và trung tiểu học lại càng cần tạo ra bầu không khí không có cạnh
tranh. Chủ thể quan trọng thứ hai của giáo dục là giáo viên
cũng phải được sống trong môi trường ít sức ép nhất. Thầy cô giáo phải
được xã hội tôn trọng hết mức. Muốn vậy, cũng như với HS, đối với giáo
viên, nhà trường áp dụng nguyên tắc không so sánh, không xếp thứ hạng
hoặc cho điểm các giáo viên, không tổ chức thi tay nghề giảng dạy, cũng
không làm bản nhận xét đánh giá giáo viên.
Ngành giáo dục
không làm cái việc đánh giá, xếp hạng chất lượng các trường. Nhờ thế
tất cả giáo viên đều rất tự tin, ai cũng tự hào về trường mình. Họ giải
thích: Nếu thầy cô còn coi thường trường mình thì HS sao có thể tin vào
nhà trường?
GS Sahlberg nói: “Rất nhiều quốc gia tiến hành
cải cách giáo dục xuất phát từ mặt hành chính, thậm chí tham khảo giới
kinh doanh, đưa phương thức vận hành công ty vào áp dụng trong trường
học, lập chế độ thưởng phạt. Cách làm như thế là không đúng. Chúng ta
đều biết, trừ khi nhà trường có giáo viên giỏi, trừ khi chúng ta luôn
đào tạo chuyên môn cho giáo viên và giúp đỡ họ, trừ khi xã hội biết tôn
trọng giáo viên, nếu không thì cải cách giáo dục sẽ không thể thành
công”.
Điều đó xuất phát từ nhận thức: Nếu xã hội đã
không tín nhiệm chính thầy cô giáo của mình thì còn nói gì tới việc HS
tin yêu và nghe lời thầy cô? Một khi thực thi cơ chế đánh giá xếp hạng
giáo viên thì tất nhiên giáo viên bị xếp hạng thấp sẽ còn đâu uy tín để
dạy các em? Một nhà trường bị xếp hạng kém thì còn ai muốn cho con mình
vào học? Như vậy giáo dục còn có ý nghĩa gì?
Nếu bạn hỏi
bất cứ quan chức nào của Bộ Giáo dục Phần Lan về chất lượng giáo viên xứ
này thì họ sẽ nói: “Tất cả thầy cô giáo của chúng tôi đều giỏi như
nhau!”. Họ cũng nói: “Tất cả các trường của chúng tôi đều giỏi như
nhau!” “Tất cả các HS của chúng tôi đều giỏi cả”. Câu trả lời ấy nói lên
sự tự tin của một quốc gia đã thực sự đạt được sự bình đẳng trong giáo
dục, vì vậy họ có quyền nói như thế. 2
Giáo viên
cũng phải được sống trong môi trường ít sức ép nhất. Muốn vậy, cũng như
với HS, đối với giáo viên, nhà trường áp dụng nguyên tắc không so sánh,
không xếp thứ hạng hoặc cho điểm các giáo viên, không tổ chức thi tay
nghề giảng dạy, cũng không làm bản nhận xét đánh giá giáo viên.
Nhằm
thực hiện được các nội dung triết lý kể trên, Bộ Giáo dục Phần Lan nêu
yêu cầu cực cao đối với chất lượng giáo viên, chỉ tuyển những người có
tinh thần hết lòng phụng sự nhân dân và đạo đức nghề nghiệp cao thượng,
và hơn nữa còn tạo điều kiện tốt nhất tiếp tục đào tạo họ. Về trình độ
chuyên môn, toàn bộ thầy cô giáo tiểu học và trung học đều phải có bằng
thạc sĩ trở lên, và phải có chứng chỉ đạt yêu cầu sát hạch tư cách giáo
viên. Người giỏi mới được làm giáo viên. Các trường sư phạm tuyển sinh
rất khắt khe, tỷ lệ thi đỗ chỉ đạt 10%. GS Sahlberg cho biết: trong năm
2010 có khoảng 6.600 ứng viên tranh nhau 660 chỗ giảng dạy ở cấp tiểu
học. Nghề giáo thực sự là nghề cao quý, được xã hội trọng vọng.
Ngành
giáo dục thiết lập một hệ thống dựa trên tinh thần trách nhiệm, cho
phép giáo viên được quyền tự do nhất định trong việc giảng dạy. HS cũng
được quyền tự chọn phương thức học tập của mình. Giáo viên lên lớp bình
quân 3 tiết mỗi ngày (so với 7 ở Mỹ), do đó có nhiều thời gian để sáng
tạo bài giảng truyền được cảm hứng cho HS.
Một quốc gia
không có cơ chế đánh giá hoặc xếp thứ hạng giáo viên và HS, không yêu
cầu thầy trò tranh vị trí thứ nhất, thế mà lại được cộng đồng OECD xếp
hạng có nền giáo dục phổ thông tốt nhất. Khi biết tin này, chính những
người Phần Lan rất ngạc nhiên.
Giấc mơ bình đẳng giáo dục
Trước
thập niên 70 thế kỷ XX, giáo dục Phần Lan chưa có gì đáng tự hào. Ngành
giáo dục thực hiện chế độ quản lý tập trung, có rất nhiều quy chế ràng
buộc công việc của giáo viên. Thời ấy HS đến 10 tuổi đều phải qua một kỳ
thi, dựa theo kết quả thi để phân ban, một loại là lớp phổ thông, một
loại là lớp học nghề; việc phân ban đó quyết định tương lai các em một
cách võ đoán, tương lai cả cuộc đời phụ thuộc vào một kỳ thi. Kết quả
thi được cho điểm từ 4 đến 10; điểm 10 là điểm số cao nhất; điểm 4 là
trượt. Thời ấy các em HS tuổi còn nhỏ mà đã biết dùng đẳng cấp để so bì
lẫn nhau, qua điểm số mà cho rằng mình kém hoặc hơn người khác. Trong
mỗi lớp lại còn chia ra các nhóm HS tùy theo năng lực, các em luôn so kè
lẫn nhau.
Về sau giới chức giáo dục Phần Lan nhận thấy
cách làm như vậy là không tốt, bởi lẽ mỗi người đều có năng lực và cách
biểu hiện khác nhau. Làm như vậy chẳng khác gì bắt voi, chim cánh cụt và
khỉ thi tài leo cây; dùng tài leo cây làm tiêu chuẩn đánh giá năng lực
của chúng là rất vô lý. Vì thế ngành giáo dục nước này đã quyết định hủy
bỏ chế độ chia đẳng cấp, không dùng điểm số để phân chia thứ bậc nữa.
Các giáo viên nhanh chóng nhận thấy cách làm này là tốt. Nhờ thế đã thay
đổi không khí học tập trong trường, thầy trò hợp tác với nhau, đoàn kết
nhất trí. Từ thập niên 80, mọi hình thức sát hạch và thi cử, kể cả chế
độ thi thống nhất chung cho các trường đều bị hủy bỏ.
Một
nội dung nữa của triết lý giáo dục Phần Lan là toàn thể HS phổ thông
trong cả nước phải được hưởng nền giáo dục như nhau, không thể để con
nhà giàu được học tốt hơn con nhà nghèo, con em người da trắng được học
tốt hơn con em người da màu di cư từ châu Phi châu Á đến. Tư tưởng bình
đẳng giáo dục ấy được Nhà nước Phần Lan nêu ra trong một đạo luật ban
hành năm 1860. Từ năm 1915, giáo dục được thừa nhận là một quyền công
dân.
Trong đợt cải cách giáo dục tiến hành vào những năm
70 thế kỷ XX, ngành giáo dục Phần Lan nêu ra ước mơ HS trong cả nước đều
được học trong các trường công chất lượng tốt 3. Họ gọi ước mơ ấy là
Giấc mơ Phần Lan (The Finnish dream). Sự nghiệp giáo dục của họ phát
triển liên tục, bền vững suốt 40 năm nay chính là nhờ tất cả các nhiệm
kỳ Chính phủ nước này đều nối tiếp nhau thực hiện bằng được giấc mơ bình
đẳng giáo dục ấy, dù đảng phái nào lên cầm quyền cũng vậy.
Ít
thấy nước nào có được giấc mơ giáo dục đẹp như thế, nó kích động lòng
người và gợi mở bao ý tưởng tuyệt vời, nó giúp thu hẹp tới mức tối thiểu
sự khác biệt giữa các trường và khoảng cách giữa HS kém nhất với HS
giỏi nhất, giảm đáng kể ảnh hưởng của địa vị kinh tế-xã hội của phụ
huynh đối với HS. Các trường đều không có cơ chế đào thải HS khi các em
chưa đủ 10 tuổi ; tất cả HS đều có cơ hội học tập bình đẳng. Điều đó
xuất phát từ nhận thức: Tâm hồn trong trắng ngây thơ của trẻ em cần được
sự dẫn dắt đúng đắn của người lớn trong môi trường trong sạch thuần
khiết chứ không phải môi trường cạnh tranh tàn nhẫn của thế giới người
lớn.
Phải thay đổi tư duy nếu muốn học được gì từ giáo dục Phần Lan
Rõ
ràng tư duy giáo dục của người Phần Lan rất độc đáo. Nguyên tắc giảm
hết mức sức ép đối với HS, chủ trương thực hiện trường nào, thầy trò nào
cũng giỏi như nhau của họ khác xa lối dạy và học nhồi nhét kiến thức
cũng như chủ trương xây dựng các trường lớp “chuyên” thường thấy ở
phương Đông. Phải chăng chừng nào chưa thay đổi tư duy thì khó có thể
học được điều gì từ huyền thoại giáo dục Phần Lan?
Các phụ
huynh Á Đông lo chuyện học tập của con với tư duy không để con thua kém
ngay từ vạch xuất phát, chỉ lo đưa con vào học trường nổi tiếng, bắt
con học kiểu nhồi vịt khi chúng còn bé tẹo. Người ta quá say sưa với
những cuộc thi kiến thức, buộc tâm hồn trong trắng thơ ngây của lũ trẻ
phải nhồi nhét bao nhiêu kiến thức thế gian người lớn từ cổ Hy Lạp tới
hậu hiện đại mà chẳng biết có trau dồi được chút đầu óc sáng tạo nào cho
chúng hay không4. Cha mẹ đua nhau dạy con từ khi còn là bào thai, đưa
con vào lớp năng khiếu từ tuổi mẫu giáo, thi HS giỏi, thi Olympic, học
thêm, học hè. Tư duy ấy làm họ hao tổn công của, chỉ làm mồi cho bao kẻ
cơ hội vớ bẫm bằng cách mở các trường lớp nhắm vào nhu cầu của họ. Cả xã
hội lao vào thi cử, học để mà thi, cho nên học vẹt chứ không phải học
để có năng lực sáng tạo. HS chấp nhận mọi kiến thức được dạy mà không
dám nghi ngờ, phản biện.
Cần phải thấy quan niệm không để
con em thua kém ngay từ vạch xuất phát là có hại cho sự trưởng thành
của trẻ em. Mục đích của giáo dục phổ thông là trau dồi luân lý đạo đức,
gợi mở tri thức. Một nền giáo dục quá chú trọng điểm số và cạnh tranh
sẽ chỉ làm tổn thương trí tuệ và tâm hồn thuần khiết của trẻ em. Thật
đáng thương những đứa trẻ thơ ngây hết cặm cụi học ở trường lại vùi đầu
làm bài tập ở nhà, không còn thời gian rảnh rỗi, lúc nào cũng sống trong
sức ép căng thẳng do người lớn tạo ra. Học tập đáng lẽ là niềm vui lại
trở thành gánh nặng, thành nỗi lo âu, thâm chí sợ hãi của chúng. Điều đó
không thể không ảnh hưởng tới sự phát triển tâm sinh lý bình thường của
trẻ.
Hàn Quốc có một Thần đồng thất bại. Đó là
Kim Ung-Yong sinh năm 1962, được sách Kỷ lục Guinness công nhận có IQ
cao nhất thế giới : trên 210. Mới 4 tuổi Kim đã được học và đọc được ba
ngoại ngữ Nhật, Đức, Anh. Sau đó chú bé được mời vào học khoa Vật lý Đại
học Hanyang. 7 tuổi, Kim được Cơ quan Không gian NASA mời sang Mỹ. Tại
đây anh học xong đại học và lấy bằng tiến sỹ vật lý khi chưa đầy 15
tuổi. Sau 10 năm ở Mỹ, Kim quyết định về nhà để… phụng dưỡng cha mẹ,
chọn con đường làm người kỹ sư xây dựng bình thường, tránh xa mọi vinh
quang của danh hiệu thần đồng.
Khưu Thành Đồng -
người Hoa đầu tiên được tặng huy chương Fields Toán học (1982) - từng
khuyên Trung Quốc bỏ các kỳ thi Olympic, vì các nghiên cứu sinh Trung
Quốc do ông hướng dẫn tuy đều là HS giỏi thi Olympic nhưng rất kém năng
lực sáng tạo. Ngược lại, Einstein học tiểu học, trung học, đại học đều
rất bình thường, thậm chí bị chê là chậm hiểu. Hồi học trung học ông
từng bị đuổi học một lần, thi đại học lần thứ hai mới đỗ. Nhưng điều đó
đâu có ảnh hưởng tới sức sáng tạo vĩ đại của ông.
Quá nhấn
mạnh giáo dục ngay từ khi trẻ còn nhỏ, nóng vội nhồi nhét quá nhiều
kiến thức cho trẻ thực ra là cách làm mâu thuẫn với chính lời của cổ
nhân Trung Quốc: Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người 5, coi giáo
dục là việc lâu dài, cần hết sức nhẫn nại chờ đợi. Đời người là cuộc
chạy marathon, chỗ nào, lúc nào cũng là vạch xuất phát, phải học suốt
đời thì mới giỏi, người dẫn đầu lúc mới xuất phát chưa chắc đã là người
về nhất sau chót. Người Phần Lan không vội vàng bắt lũ trẻ học quá căng
thẳng mà dần dần từng bước gợi mở ở chúng lòng ham học, ham khám phá,
ham sáng tạo chứ không ham thành tích, ham điểm số cao, thứ hạng cao.
Vài
số liệu về Phần Lan (theo CIA Factbook và các nguồn khác): Diện tích
338.145 km2. Số dân 5,26 triệu. Số người đi học 1,9 triệu. Số trường học
các loại 5103. GDP năm 2011: 195,6 tỷ USD (PPP). GDP đầu người 38.700
USD. Chi phí giáo dục (2007) chiếm 5,9% GDP hoặc hơn 15% ngân sách. Có
hơn 3500 trường tiểu học và trung học.
[So
sánh: Singapore 5,35 triệu dân và giàu hơn (GDP đầu người 59.900 USD)
nhưng số trường tiểu-trung học ít hơn Phần Lan gần 10 lần; Hà Nội 6,5
triệu dân có 1444 trường tiểu-trung học].
----------------------------Ghi chú:
1 Waiting for Superman , được tặng giải thưởng phim tài liệu hay nhất năm 2010 tại Sundance Film Festival.
2
Báo Trung Quốc kể chuyện khi đến thăm một trường phổ thông ở Mỹ, đoàn
cán bộ giáo dục Trung QuốcQ có tặng nhà trường hai con gấu trúc nhồi
bông với đề nghị dùng để thưởng cho hai HS giỏi nhất. Ông hiệu trưởng
cảm ơn và nói “Ở trường chúng tôi em nào cũng giỏi như nhau cả ”.
3 Finnish Lesson #3: What can we learn from educational change in Finland? http://www.pasisahlberg.com /blog/?p=32.
4
Tôi đã tận mắt thấy chương trình lớp 10 ở Singapore dạy HS tác phẩm
Macbeth, một vở bi kịch viết bằng thứ English cổ của Shakespeare cực kỳ
khó hiểu ngay cả với người Anh; hơn nữa thày dạy là người Singapore thì
HS chỉ có thể học vẹt chứ sao mà tiếp thu nổi.
5 Thập niên dục
thụ, bách niên dục nhân (It takes ten years to grow trees, but a hundred
years to rear people). Xin chớ nhầm với câu “Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét