Trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính trị. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính trị. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

Còn một lần nữa không?

Bài viết "mới" do tác giả Nguyễn Tường Bách gửi cho chủ blog từ Mỹ. NAT thích những đoạn in đậm.

Cách đây một năm, Tết Giáp Ngọ, bài này đã được đăng trong một tạp chí trong nước(*). Vì lý do dễ hiểu, bài bị cắt bỏ nhiều đoạn. Sau một năm, tình hình đất nước có thay đổi, nội dung của bài phù hợp hơn bao giờ hết. Sau đây là nguyên văn bài viết.
Nguyễn Tường Bách

(*): Bài viết Mong ước đầu xuân - còn một lần nữa không? đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 30/01/2014.

Năm 1986 là một năm đáng nhớ trong đời tôi.

Một ngày nọ trong mùa thu 1986 bọn chúng tôi sáu người được Hội người Việt Nam tại Đức cử về nước để “điều trần” về tình hình thế giới, góp ý với Đại hội Đảng lần thứ sáu.

Đó là thời điểm mà các nước theo chủ nghĩa xã hội tại Đông Âu bắt đầu có những dấu hiệu thay đổi. Tại Ba Lan tháng 9.1980 công đoàn Đoàn kết thành hình và ngày càng phát huy ảnh hưởng. 1984 khắp nơi tại Ba Lan biểu tình lan rộng. Tại Hungary năm 1980 kinh tế thị trường bắt đầu được áp dụng, năm 1982 họ gia nhập Quỹ tiền tệ quốc tế IWF và ngân hàng thế giới.

Tại CHDC Đức từ giữa những năm 80, đảng cầm quyền đã phải nhượng bộ thành phần đối lập. Cũng giữa những năm 80 Gorbachev thực hiện đổi mới Glasnost và Perestroika. Tháng 3.1985 Gorbachev tuyên bố mỗi nước trong khối Warsaw được quyền theo đường lối riêng. Từ đó học thuyết được mệnh danh Sinatra thay thế học thuyết Brezhnev, vốn được dựng lên từ 1968, sau khi Liên Xô đập tan mùa xuân Praha của Tiệp Khắc.

Những ai theo dõi thời cuộc đều hiểu là một khi Liên Xô tuyên bố đường ai nấy đi thì đó là dấu hiệu tan rã của khối Đông Âu. Điều đó cho thấy chủ nghĩa xã hội kiểu Đông Âu đã chứng tỏ sự phá sản của mình.

Tôi chuẩn bị về Hà Nội và nhớ đến CHDC Đức của những năm qua. Đây là quốc gia hùng mạnh nhất của khối Đông Âu, có tiềm lực khá nhất về kỹ thuật và kinh tế so với các nước khác, kể cả với Liên Xô hồi đó. CHDC Đức tiếp giáp với Tây Đức, về mặt địa lý lại chứa cả Tây Berlin nằm lọt thỏm trong lòng nó, nên CHDC Đức chính là “tiền đồn” số một của phe xã hội chủ nghĩa. Chính vì lẽ đó mà Đông Đức càng cẩn mật hơn đối với mọi ảnh hưởng của phe Tây phương.

Tôi càng nhớ hơn những ấn tượng của mình tại Đông Đức trong năm 1970. Đó là năm mà bọn sinh viên trẻ chúng tôi, mà chỉ là người nước ngoài, người Đức không được tham dự, được đặc cách cho đi thăm CHDC Đức một ngày, buổi tối không được ở lại, phải trở về Tây Berlin. Chuyến xe bus chạy trên những hành lang đã định sẵn từ Tây Đức đến Tây Berlin, xuyên qua địa phận Đông Đức, trên những xa lộ cách ly với phố xá làng mạc. Thỉnh thoảng xe dừng lại để sinh viên Tây Đức, với chút ngoại tệ “mạnh” ít ỏi trong túi, được mua cà-phê thuốc lá trong các cửa hàng Intershop. Họ cần ngoại tệ mạnh và đó là lý do mà chúng tôi được đi thăm. Qua biên giới ngồi trên xe tôi thấy rõ công an Đông Đức dùng những chiếc gương lớn có bánh xe, đẩy vào gầm xe xem có công dân nào của họ trốn dưới đó không.

Từ Tây Berlin chúng tôi đến Checkpoint Charlie, đó là cửa biên giới giữa hai phần của thành phố Đông Tây Berlin. Khách hồi hộp đi qua những hành lang hẹp, quanh co dưới cặp mắt dò xét của công an mật vụ Đông Đức. Mỗi khách phải đổi 20 Mark, tiền Đông Đức, một ăn một, nghe là để mua sắm, nhưng thực tế là trả tiền vào cửa với ngoại tệ mạnh.

Sau vài góc đường kể từ trạm kiểm soát, lạ thay có một thanh niên tìm tôi hỏi chuyện. Anh hỏi tôi có dư chiếc quần jean nào muốn bán lại cho anh. Tôi trố mắt lắc đầu. Anh lại đề nghị tôi cùng đi đến Intershop mua hàng với ngoại tệ mạnh, tiền anh đưa, công dân như anh không được mua hàng Intershop. Tôi cũng lắc đầu nốt. Vô cùng ngạc nhiên tôi tự hỏi, con người mới xã hội chủ nghĩa mà như thế này ư, nhất là trong một xứ ưu việt nhất của khối Đông Âu.

Trong ngày hôm đó của năm 1970 tôi lại nhớ lại một kỷ niệm xưa. Trước đó chục năm, khoảng 1960, tôi chỉ là một đứa trẻ 12 tuổi sống trong thành thị miền nam thời còn hòa bình. Ngày nọ tôi được theo người lớn ra bến sông Bến Hải, đến cầu Hiền Lương nhìn qua bờ bắc. Vĩ tuyến 17 là đây, sông Hiền Lương nước chảy chầm chậm. Tôi bâng khuâng nhìn qua, bên kia là đồng bào của tôi hay sao. Xa xa ta thấy rõ trẻ con người lớn đi lại, có người đi xe đạp. Nhưng đập vào mắt tôi là một hàng chữ thật to, dành cho người nhìn từ bờ nam. “Hai miền, hai chế độ”. Dù là đứa trẻ, tôi biết ngạc nhiên thấy câu khẩu hiệu có vẻ “hiền”, không khiêu khích, không tuyên truyền như tôi tưởng.

Trên cao ở hai bờ là hai lá cờ, một vàng một đỏ. Lạ thay chiếc cờ vàng rủ xuống như khăn tang. Còn lá cờ đỏ bên kia, không rõ được làm bằng thứ vải gì mà trời ít gió vẫn bay phất phới. Điềm lành điềm dữ gì đây?

Chiếc cầu Hiền Lương khung sắt mặt gỗ chỉ là một chiếc cầu nhỏ như trăm vạn chiếc cầu trên quốc lộ 1, tôi nhìn và nghĩ đời mình sẽ không bao giờ đi trên cầu đó. Thế nhưng hồi đó vẫn có người qua lại, vì khi tôi vào văn phòng quân đội miền nam đã có một người đội nón cối, miệng hút thuốc ngồi đó. Ông mang “bưu thiếp” từ bên kia qua, khuôn mặt bất động nhìn chúng tôi. Trong bọn chúng tôi có một đứa mũi hơi cao, da hơi sáng. Ông thốt lên “cháu này lai Mỹ”. Câu nói đầu tiên và duy nhất của ông đã trật lất.

Chục năm sau tại Đức tôi đang nếm mùi của “hai miền hai chế độ”. Nhưng hôm nay tôi được băng qua biên giới, đi thăm miền đất của con người mới xã hội chủ nghĩa. Ở đây chưa ai nhìn tôi với cặp mặt khinh thị, ngược lại có kẻ chạy theo xin hỏi mua chiếc quần jean.

Suốt chục năm sau tôi không trở lại Đông Đức, nhưng vẫn nghe người dân ở đó vẫn tìm mọi cách vượt biên qua Tây Đức, bất kể hiểm nguy cho bản thân và hệ lụy cho người ở lại. Thế nhưng với lực lượng công an cảnh sát mà tôi từng tận mắt trông thấy, tôi nghĩ Đông Đức sẽ trường tồn thiên thu bất diệt. Tấm gương mùa xuân Praha 1968 vẫn còn nóng hổi. Thậm chí tôi còn lo ngại một ngày xấu trời nào đó, bộ đội Đông Đức sẽ tràn ngập Tây Berlin vì thành phố này nằm như một hòn đảo phồn vinh giữa một vũng lầy nghẹt thở.

Thế mà chỉ hơn 15 năm sau kể từ lần viếng Đông Đức, tôi cùng phái đoàn ngồi máy bay về Hà Nội, sẽ gặp lãnh đạo Đảng và Nhà Nước để “báo cáo về tình hình thế giới và phong trào”. “Báo cáo” ở đây phải gọi là “báo động” thì đúng hơn vì thông điệp của chúng tôi cho các vị lãnh đạo là hãy thay đổi, trên thế giới đang rục rịch thay đổi.

Trong một buổi sáng nắng hoe vàng như màu nắng thường thấy ở miền bắc trong mùa thu, chúng tôi đến văn phòng Trung Ương Đảng, vào trong một gian phòng nghiêm trang, ngồi vào một chiếc bàn rất rộng. Người “làm việc” với chúng tôi không ai khác hơn là ông Nguyễn Văn Linh, về sau là Tổng Bí thư. Các nhân vật khác cùng có mặt là các ông Đào Duy Tùng và Hoàng Bích Sơn. Các vị lắng nghe chúng tôi một cách nghiêm túc. Tôi bất ngờ cảm nhận lòng cởi mở thân tình của các vị quan chức cấp cao nhất. Họ không có vẻ gì ngạc nhiên khi nghe tình hình các nước Đông Âu đang chao đảo. Họ để cho chúng tôi nói hết, không tỏ chút gì khó chịu khi nói nghe nói đến khuyết tật cố hữu của một nền kinh tế kế hoạch.

Ngồi đây tại Hà Nội tôi không khỏi nhớ lại đời mình. Từ một đứa trẻ đứng ngẩn ngơ bên cầu Hiền Lương và nghĩ đời mình sẽ không bao giờ qua bờ bắc, tôi đã đi một vòng lớn của cuộc đời. Số phận cho tôi đến học tập ở Đức, cũng một nơi được gọi là “hai miền hai chế độ” như nước mình. Rồi tôi cũng từng băng hàng rào sắt qua bên đó và chứng kiến chớp nhoáng cách làm ăn cò con của thời bao cấp. Nay tôi lại ngồi đây, trong một quê hương thống nhất, tại trung tâm quyền lực của cả nước và “làm việc” với Tổng Bí thư.

Thế nhưng nói thật lòng, ngay hồi đó tôi đã không có chút ảo tưởng nào. Làm sao mà các vị đó tin nghe mình, chấp nhận kiến nghị của dăm ba Việt kiều non nớt và đáng ngờ được. Những người mà họ tin nghe phải là những người khác mà chúng tôi không bao giờ gặp. Tiếng nói của chúng tôi chỉ điểm trang cho vui trong một hoàn cảnh cần chút màu sắc khác lạ. Vòng đời từ cầu Hiền Lương, gặp ông cán bộ đưa thư, đến Tây Đức, rồi lạc một ngày qua bên Đông để rồi hôm nay về lại tổ quốc, ngồi đối diện với Tổng Bí thư chỉ là một trò đùa hóm hỉnh của số phận hay đi lang thang của tôi.

Sau đó Đại hội VI diễn ra trong tháng 12.1986 với nhiều thay đổi thực. Lãnh đạo Việt Nam từ bỏ con đường bao cấp, chấp nhận nhiều thành phần kinh tế và mở cửa cho đầu tư nước ngoài. Tôi hoàn toàn không nghĩ đó là nhờ “công” góp ý của chúng tôi mà chủ trương này đã định hình một cách bắt buộc trong bối cảnh ảm đạm của nước Đông Âu. Thế nhưng so với cũ, đây là một công cuộc đổi mới vô cùng quyết liệt và mang lại thành quả to lớn.

Tháng 11 năm 1989 một biến cố long trời xảy ra tại Đức. Bức tường Berlin sụp đổ. Tôi ngồi xem hàng đoàn người hân hoan đi qua Checkpoint Charlie, nơi mà gần 20 năm trước chúng tôi phải chầm chậm đi về trong ngày, giữa những con mắt xoi mói. Tôi sởn da gà khi nhớ rằng, lịch sử ngàn năm sẽ nhớ lại cảnh này, cảnh một dân tộc thống nhất không cần tốn một viên đạn. Cầu Hiền Lương của họ đã mở cửa và người ta đi chiều ngược lại.

Hè năm 2012 chúng tôi trở về Checkpoint Charlie. Đường Friedrich không còn chập chùng đồn bót, nay rộng rãi thông suốt. Gần đó là một quán ăn Việt Nam đông khách, phục vụ trẻ măng. Đồng bào tôi đây, không hề ít tại nước Đức kỳ lạ này. Xung quanh trạm biên giới cũ, ta còn thấy hình ảnh xưa, nền móng cũ, ngày đó nơi đây một thuở… Quanh tôi là khách du lịch còn trẻ, người nước ngoài khá nhiều. Họ có biết chăng có người cảm khái nhớ đời mình và vận nước non của 40 năm qua.

Sau lần gặp Tổng Bí thư tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ gặp quan chức cấp cao nữa. Thế nhưng cũng có một ngày đặc biệt trong đầu những năm 90. Tại sân bay Bangkok, trên xe bus từ máy bay vào nhà ga, tôi gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông lên xe trước tôi, lúc đó còn rất khỏe mạnh. Tôi đến gần ông, trân trọng hỏi thăm “Thưa Cụ, có phải Cụ là Cụ Võ Nguyên Giáp?”. Ông không trả lời, cũng không nhìn tôi, làm như không nghe thấy. Khuôn mặt ông bất động còn hơn ông cán bộ đưa thư ngày nọ. Tôi ngẩn ngơ, tự hỏi phải chăng mình nhìn lầm. Xuống xe tôi đi nhanh vào sảnh. Ở đó đã có vài ba người đứng đón, có chị mặc áo dài, với vòng hoa và bảng đề “Nhiệt liệt chào mừng…”.

Tôi thưa không thấy trả lời. Trong nước ông là vị tướng từng oanh liệt đánh thắng giặc Pháp. Ra ngoài ông đề phòng những ai nói tiếng Việt.

Kể từ đó tôi không còn gặp quan chức cấp cao, thật lòng tôi cũng không muốn. Nhưng cấp thấp thì nhiều. Thỉnh thoảng tôi vẫn gặp gỡ chuyện trò với họ, thậm chí chơi chung thể thao. Thỉnh thoảng khơi chuyện “bao cấp” ngày xưa thì y như rằng, ai cũng có chuyện để kể, từ anh lái xe đến ông thủ trưởng. Sức sống dân tộc to lớn thay. Thực vậy, chỉ bỏ ngăn sống cấm chợ và cho nước ngoài đầu tư mà nước ta đã tiến triển một cách ngoạn mục từ 1986 đến nay.

Nhưng rủi thay tiến trình của xã hội luôn luôn thay đổi và đòi hỏi phải có sự đổi mới. Qua năm thứ 14 của thế kỷ mới, Việt Nam đã bộc lộ tất cả khuyết tật của hệ thống. Kinh tế suy thoái, tham nhũng lan tràn, các giá trị văn hóa xã hội bị sa sút trầm trọng, điều đó đã quá nhiều sách báo nói đến. Tình hình ngày nay bức xúc hơn 1986, đó là điều tôi nhận xét. Nếu không thay đổi một cách tầm cỡ như 1986 đất nước sẽ đi về đâu?

Xét lại lịch sử, Việt Nam chỉ thay đổi khi quốc tế thay đổi. Sự chấm dứt thế chiến thứ hai là cơ hội cho Đảng lãnh đạo nắm chính quyền. Sự đổi xác năm 1986 là kết quả cuộc phá sản của các nước Đông Âu. Thế thì phải chăng Việt Nam phải đợi một biến cố tầm cỡ trên quốc tế? Tôi không biết.

Tại Đức thì sau 24 năm thống nhất, nước Đức đã đưa Đông Đức lên ngang tầm phát triển của phía Tây, đó là tin vui của họ trong mùa thu 2013. Hiện tượng người bỏ sang Tây để kiếm việc đã chấm dứt. Người Đức cũng không phải thánh thiện gì, chính trị gia của họ cũng đầy khuyết tật, cũng ôm ấp những ý đồ riêng tư và ích kỷ. Nhưng điểm ưu việt của Đức là họ quyết lòng theo một xã hội pháp quyền, tất cả phải được điều hành bằng luật pháp. Việc cựu Tổng thống của họ hiện nay phải hầu tòa vì tội lạm dụng quyền thế về một số tiền chưa đầy 1000 USD, một số tiền nực cười, đối với quan chức Việt Nam hiện nay hoàn toàn không lớn, cho thấy luật pháp của Đức triệt để như thế nào.

Tôi không nghĩ mình sẽ còn có cơ hội “điều trần” gì với ai tại Việt Nam nữa. Nhưng dân tộc Việt Nam phải được một lần hỏi ý kiến. Đã đến lúc rồi, người Việt Nam phải ngồi với nhau xem thử nên điều hành đất nước theo phương cách nào. Năm 1986 đã từng có một cuộc đổi thay quyết liệt.

Có còn một lần nữa không?

Thứ Năm, 26 tháng 12, 2013

Cuộc đời chính trị của tôi

Thủ tướng Anh, Tony Blair. Ảnh: Libertypundits.net
Hồi ký của cựu Thủ Tướng Anh, Tony Blair 
Tuần báo Time số ra ngày 13 tháng Chín 2010 đăng đoạn trích “A Call to Greatness” lấy ra từ trong cuốn sách mới xuất bản: “A Journey: My Political Life” do cựu Thủ Tướng Anh Quốc Tony Blair viết những cảm nghĩ của ông về nước Mỹ và những vị Tổng Thống Mỹ ông có dịp làm việc chung với họ.

Trong thời gian làm thủ tướng, tôi trở nên yêu quí nước Mỹ – tôi yêu ý tưởng vươn cao của họ, tôi yêu cái triết lý tự lập, xây dựng từ hai bàn tay trắng, để trở nên một người có giá trị trong xã hội. Cá nhân tôi không khởi đầu sự nghiệp theo kiểu đó, và tôi cũng không quen biết nhiều người Mỹ khi còn nhỏ, cái thời cắp sách đi học, hay khi lên đại học. Mãi đến năm 32 tuổi tôi mới đi thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên. Nhân sinh quan của tôi về nước Mỹ hình thành qua những phim ảnh, chương trình TV, và một vài chung đụng lẻ tẻ với du khách Mỹ. Tôi có chung cái cảm nghĩ giống như nhiều dân Anh khác là hay nhíu mặt, chau mày khi nghĩ đến người anh em họ xa ở bên châu Mỹ.  Nhưng vào năm 1985, tôi được tham dự trong phái đoàn đại biểu Quốc Hội Anh đi gặp Bộ Trưởng Ngân Khố Hoa Kỳ James Baker, nghe ông nói chuyện về đề tài đánh thuế hai lần, một vấn đề khi hai quốc gia đòi đánh thuế chung một giao dịch kinh tế. Tôi không hề biết chút gì về ông Jim, song ai đó đã quyết định tôi sẽ là người phải đứng ra trình bầy với ông Bộ Trưởng Ngân Khố Mỹ về trường hợp của nước Anh, và phải thuyết trình một cách hùng hồn, mạnh mẽ. Giống như bất cứ một luật sư trẻ siêng năng cần mẫn vào lúc bấy giờ, tôi vội vàng thu thập tất cả những dữ kiện về đề tài, và nghiên cứu hối hả để mau trở thành một chuyên gia về đề tài đó. Kế đến, được vinh dự đi công tác bằng máy bay siêu thanh Concord làm cho tôi cảm thấy như mình là một nhân vật hết sức quan trọng.
Nhưng rồi, sau phiên họp, tôi có cảm giác như một võ sĩ quyền Anh được cho biết trước trận đấu được bán độ là đối thủ sẽ bị rớt đài trong hiệp hai, không ngờ lại bị đưa vào vòng đấu với một địch thủ siêu đẳng, cỡ võ sĩ Rocky Marciano, và tay này không biết gì về chuyện cáp độ đó. Vâng, quả thực ông Jim đã chủ động ngay từ đầu, ông ta nắm vững từng con số, từng chi tiết một, ông giải thích cho tôi cặn kẽ từng điểm phải làm như thế nào mới là đúng, ông khiến cho tôi bẽ mặt như một con hổ giấy, và làm cho tôi như con cá chết đuối nhìn sao ở trên trời. Tóm lại, ông là một người rất thông minh. Bài học mà tôi lãnh hội ngày hôm đó là người Mỹ thông minh lắm, có những người hết sức tinh thông.
Đó là một bài học hữu ích cho tôi khi tôi lên làm Thủ Tướng. Tôi có dịp làm việc chặt chẽ với hai Tổng Thống, Bill Clinton và George Bush, và biết được vị tổng thống thứ ba là ông Barack Obama, qua việc làm gần đây của tôi về tình hình ở Trung Đông. Nghệ thuật lãnh đạo là một năng khiếu riêng tư của mỗi cá nhân. Người đời thường nghĩ rằng nhà lãnh đạo là loại người duy nhất có khả năng tồn trữ những kiến thức mà người khác không có, và do địa vị của quyền chức họ có thể quan sát những điều mà người khác không thể có. Mặc cho giới truyền thông có xu hướng lôi đầu người lãnh đạo xuống bình địa, phô bầy những nhược điểm của họ thật nhặ̣m lẹ và xâm lấn đời tư kỹ càng hơn bao giờ hết, nhưng vẫn có một ý tưởng cho rằng nhà lãnh đạo, nhất là vị tổng thống của Hoa Kỳ thường là những nhân vật vượt bực, giống như người đứng từ trên đỉnh núi Olympia. Người thường dân cảm thấy thán phục chức vụ tổng thống, chí ít họ là cá nhân xuất chúng đang nắm giữ vai trò đó, khiến cho mọi người phải cảm phục.
Trong vai trò Thủ tướng nước Anh, có lẽ tôi biết được ít sự thật vì thường hay có dịp gần gũi thân mật với các tổng thống Hoa Kỳ – và khi đó bạn sẽ nhìn thấy những tính nết, đặc điểm cá nhân của từng người một. Bạn sẽ không chỉ quan sát họ dưới góc cạnh của một nhân vật đang nắm quyền lực ở xa bạn, song bạn có dịp nhìn rõ ông ta như những diễn viên bằng xương bằng thịt trong vở tuồng nhiều kịch tính của sân khấu chính trị. Trong trường hợp của tôi, tôi ở vị trí hết sức thuận lợi để nhận xét về những ông tổng thống, và cũng từ đó khiến tôi có thêm lòng kính trọng, ngưỡng mộ phẩm chất nghệ thuật lãnh đạo mà nước Mỹ đã sản sinh ra những vị tổng thống đó. Người ta thường hỏi tôi: “Ông hãy nói cho tôi nghe cảm nghĩ, hay những gì ông biết về ông Bill Clinton, và ông George Bush?” Câu trả lời của tôi là: “Đây là một nhận xét thật từ trong hậu trường: Hai ông ấy hoàn toàn khác hẳn nhau!.”. Nhưng cả hai đều có những ưu điểm riêng của họ.
Sức Đề Kháng và Khả Năng Nhận Xét Bén Nhậy
 Khi mới quen ông Bill – và cho đến bây giờ – tôi nhận thấy ông ta vẫn là một chính khách tài ba, lỗi lạc nhất mà tôi từng gặp, ông ta vẫn còn có những đặc điểm đó. Thế mà khả năng và kinh nghiệm xuất chúng của ông trong việc am hiểu chính trị nhiều khi làm cho người ta quên mất ông ta còn là một nhà tư tưởng vĩ đại. Ông có những chương trình, tư tưởng về triết lý chính trị rất rõ ràng được suy nghiệm sâu xa, đến nơi đến chốn. Ông có sự duyên dáng vô tận trong việc xã giao, làm quen với mọi người dân giả bình thường. Tôi nhớ hồi năm 2003, khi ông đến dự Hội Nghị thường niên của Đảng Lao Động Anh, tổ chức tại khu nghỉ mát Blackpool thường tình vùng bờ biển phía Bắc nước Anh. Buổi tối khuya, ông ta đi ra ngoài phố, ăn hamburger và khoai rán tại tiệm McDonald, để tán gẫu với người dân điạ phương.  Làm cho một vài tốp người đi ăn khuya ngạc nhiên cứ như thể là ông ta đã từng đến đây vào mỗi tối thứ Ba để ăn tối với họ. Trong nhiều năm liên tiếp phe cực hữu cố tạo dựng một huyền thoại rằng Bill Clinton đã đắc cử vì ông là một tay giảo hoạt chính trị, có cái miệng khéo nói, trơn như bôi mỡ. Thật ra, ông Bill được bầu vì cử tri ông khôn ngoan, thông minh. Họ đầu tư vì ông đem đến cho họ những chương trình hành động hợp lý, tân tiến, khả thi, dựa vào những nguyên lý thích hợp với tình hình cuộc sống của cử tri hơn bất cứ những gì được hứa hẹn trước giờ..
Ông Bill Clinton có một sức đề kháng bền bỉ, vô song. (Bạn hãy nhớ lại cái giai đoạn ông bị lôi ra đòi truất phế. Quả là kinh khủng không tưởng tượng được. Làm thế nào mà ông có thể tồn tại, sống sót nỗi? Thế mà ông ta đã thắng vượt qua được,và khi ra đi, vẫn có đến hơn 60% cử tri ủng hộ ông.). Trời cho ông ta có tính bình tĩnh, rất “cool”, cái tính này có tự bẩm sinh, và nó lộ ra vào những lúc ông bị dầu sôi lửa bỏng. Hơn thế nữa ông là một Tổng Thống xuất sắc. Nhiều lúc ông điều khiển chức vụ tổng thống một cách dễ dàng, thoải mái, chẳng hạn như ông chỉ đạo nền kinh tế một cách tài tình, làm được nhiều cải cách đáng khen, giải quyết cơn khủng hoảng ở Kosovo rất khéo, bằng một chỉ đạo tài ba. Ví như ông còn làm tổng thống sau biến cố 9/11 khi nước Mỹ bị đánh khủng bố, ông sẽ lãnh đạo ra sao? Đây là một đề tài lý thú cho chúng ta lý giải. Hoàn cảnh thế giới biến đổi rất nhanh, sự thông minh, duyên dáng của ông chưa đủ. Cần phải có một nhân vật có đủ “bản lãnh”, và “cứng cựa” để đối phó với tình thế. Tôi tin rằng ông chính là người hội đủ những yếu tố này.
Ông George Bush là loại người trực tính và thẳng thừng, và ông cũng rất thông minh. Một trong những hình ảnh được khuếch đại kỳ quặc và vô căn cứ nhất thường hay mô tả ông George Bush như một thằng ngố, bỗng dưng được rơi vào ghế tổng thống. Thực ra chẳng có ai bỗng dưng được rơi vào ghế tổng thống đâu, và lịch sử những cuộc vận động tranh cử tổng thống Mỹ cho thấy biết bao nhân vật có tiếng là thông minh cũng vẫn rơi đài la liệt, bởi vì thông minh thôi vẫn chưa đủ. Ở Hoa Kỳ cũng như ở Anh quốc, trong đấu trường chính trị, đương nhiên bạn phải thông minh, nếu không bạn sẽ bị ăn tươi nuốt sống, bạn phải vượt trội hơn ngoài sự thông minh, và sáng trí.
Ông George Bush có đặc tính là hết sức trầm tĩnh. Tôi có mặt ở Toà Bạch Cung vào chiều ngày 20 tháng 9 năm 2001 với tổng thống Bush trước khi ông ra Quốc Hội đọc diễn văn đầu tiên về chuyện quân khủng bố tấn công ở New York và Washington chín ngày trước đó. Tôi thấy ông chẳng có chút gì là hoảng hốt, lo sợ, hay băn khoăn gì cả. Ông ta tỏ ra rất bình thản, ung dung. Ông có trách nhiệm hoàn thành sứ mạng của một tổng thống. Ông không bị buộc phải làm cái sứ mạng đó, và ông cũng không mong chờ nhận đón trách nhiệm này. Ông không tìm đến nó. Nó đã tìm đến ông. Trong tâm trí của ông vấn đề hết sức rõ ràng là tình hình thế giới ngày nay đã thay đổi, và trong vai trò tổng thống của một cường quốc mạnh nhất thế giới, ông phải xông pha ra gánh vác trách nhiệm này vì hoàn cảnh đổi thay. Tôi buột miệng hỏi ông xem ông có bối rối không. Ông trả lời thật: “Không. Thật ra, chẳng có gì phải bối rối cả. Tôi có sẵn trong tay bài diễn văn, và bản thông điệp tôi hết sức rõ ràng.” Tôi ngạc nhiên trước thái độ bình tĩnh của ông. Tôi quan sát ông thật kỹ. Quả thực trông ông rất ung dung, bình thản.
Ông George Bush cũng có lối mẫn cảm riêng của ông. Nhưng lối mẫn cảm của ông Bush khác với lối của ông Clinton – ít có ý nghĩa về chính trị, song lại nặng về tính chất đúng hay sai, phải hay quấy nhiều hơn. Ý nghĩ không được nói lên the khả năng phân tích sự việc, hay trình độ trí thức. Nó chỉ được phát biểu như thế đó. Vì tôi thuộc trường phái của ông Clinton, hay lo xa, và muốn mọi việc chu toàn, nên đôi lúc tôi cảm thấy khó hiểu, và báo động. Đôi lúc có mặt với Tổng Thống Bush trong một buổi họp báo, ngay tại tâm điểm của mọi biến động làm chao đảo thế giới, tôi có ý định nhắc chừng ông: George, nhớ giải thích vấn đề đấy nhé, đừng có chỉ nói suông thôi.
Tuy nhiên theo thời gian và suy gẫm lại những biến cố trong quá khứ và những diễn biến xảy ra sau khi hết làm thủ tướng, tôi  từ từ nhận ra được những đức tính giản tiện, thẳng thừng, và có khi liều lĩnh, táo bạo của ông Bush. Đó là ưu điểm và sức mạnh của ông. Đôi khi, ngay trong lý giải tìm lẽ phải chúng ta quên đi mục tiêu tìm một điểm đến, một lối ra trong một bát quái trận đồ, một giải pháp vững vàng mà có thể đúng không phải chỉ trong vòng vài tuần, vài tháng, một năm, hai năm, nhưng là tính chất lâu dài, bao la trong sự phán xét của lịch sử.  
Và rồi tiếp đến là ông Barack Obama. Ông bước lên sân khấu chính trường ngay sau khi cơn khủng hoảng tài chánh, và hai cuộc chiến ở IraqAfghanistan. Chưa hết, ông còn phải đối đầu với tình hình kinh tế suy thoái nhị trùng, và phải tìm cách ngăn chặn Iran trong việc phát triển vũ khí nguyên tử. Và như xưa nay, với một lãnh tụ mới, cá tính làm chính trị của ông cần phải có thời gian để thành hình, để được hiểu rõ. Về cá tính của ông, thì rất rõ ràng, ông là một con người có ý chí sắt đá. Nhưng những kỳ vọng lại rất quá đáng. Trong suốt quá trình làm việc, ông tỏ ra là một nhân vật tài giỏi, trầm tĩnh như từ bấy lâu nay. Và thưa các bạn, để làm được việc này không dễ đâu.Tôi chỉ giữ được tình thế ổn định, vững vàng vào lúc cuối nhiệm kỳ.
Tôi nghĩ rằng tôi hiểu được vị tổng thống mới này đang cố gắng làm những gì. Ông chỉ trích những người tiền nhiệm rất ít, có khi vì mục đích chính trị, ông sẽ được lợi lộc nếu ông nhận cái sai của họ, Ông không có một ảo tưởng nào về mức độ trầm trọng trong việc cải tiến tình hình kinh tế hay bảo vệ an ninh, và trong phong cách riêng, ông Obama cũng cứng rắn không thua gì ông Bush. Ông ta đang tìm cách uốn nắn một chính sách mới để đương đầu với những định hướng này. Ông tìm cách tránh những tác hại quá đáng của tình hình kinh tế, và không để Hoa Kỳ mất sự ủng hộ của đồng minh hiện có hay có thể có, trong việc đương đầu với tình hình an ninh thế giới.
Một Quan Niệm Rõ Ràng Về Quốc Gia
Tất nhiên, ba ông CLINTON, BUSH và OBAMA đều có cá tính riêng của mình. Nhưng cả ba đều có một mẫu số chung rất lớn. Ở một tầng ý thức hệ nào đó, họ chia sẻ một khái niệm rất tương đồng và rõ ràng về nước Mỹ. Các lãnh tụ trên thế giới đều có những xu hướng, cá tính khác biệt, và tôi đã từng gặp đủ loại nguyên thủ, lãnh đạo. Tôi nhớ có lần ngồi họp trước mặt một vài nhà lãnh đạo, họ tồi dở đến mức trong đầu tôi không còn một ý nghĩ nào khác hơn: “Chúa ơi,, sao dân chúng của nước nào mà bất hạnh đến thế.” Thật thế, bạn sẽ gặp những nhà lãnh đạo đần độn; xấu tính; tẻ nhạt; những người không xứng đáng làm lãnh tụ; những người quái gở; họ là sản phẩm của một chế độ điên rồ, bệnh hoạn, những lãnh tụ chai lì, đến độ trơ thổ địa, khiến mình thảng thốt không hiểu họ có còn cảm xúc gì nữa không, huống hồ biết cảm nhận. Đã có lần tôi hỏi một câu hơi tàn nhẫn khi được tin một nhà lãnh đạo qua đời: “Sao họ biết được là ông đã chết?”.
Nhưng cạnh đó, lại có những nhà lãnh đạo vừa thông minh, vừa khôn ngoan và tử tế. Họ là những người làm cho bạn phải cảm phục và quí mến. Và chính ở điểm này chúng ta cần ghi nhận: Có rất nhiều người hội đủ những đức tính đó, nhiều hơn mức bạn thường nghĩ.
Theo tôi, ngoài những thử thách về chính sách, óc phán xét, tài năng chính trị, và khả năng thao lược, một cuộc thử thách  tối thượng về tài lãnh đạo của vị nguyên thủ là thử xem ông ta có đặt quyền lợi quốc gia trên hết hay không. Ông ta có đặt quyền lợi của quốc gia dân tộc cao hơn lợi ích chính trị cá nhân của mình hay không? Đó chính là cuộc thử nghiệm cuối cùng. Có rất ít vị nguyên thủ đậu được cuộc thi này. Cả ba vị tổng thống tôi vừa kể trên đều làm được chuyện đó, bằng một lý do không chỉ liên hệ đến cá nhân mình.
Người Mỹ có thể bị tai tiếng đủ điều theo như phán xét của thế giới bên ngoài, nào là kiêu ngạo, ồn ào, tự kỷ, ám ảnh vì vai trò của mình, và nặng tay với bạn bè. Nhưng chắc chắn nuớc Mỹ vĩ đại vì có duyên cớ của nó. Mỹ vẫn là một cái gương để noi theo, bất kỳ mọi chỉ trích, vì có lý cớ của nó. Vâng, trong phẩm cách của người Mỹ có tinh thần mã thượng, hào hiệp, được hun đúc qua nhiều thế kỷ, xuất phát một phần từ tinh thần khai phá biên cương mới khi lập quốc, một phần từ những đợt di cư của các sắc dân khắp thế giới đổ về đây tạo nên cốt cách, từ cuộc chiến đấu giành độc lập, đến cuộc Nội Chiến, từ nhiều biến cố lịch sử, cũng như những sự kiện tình cờ. Tất cả những tinh hoa nằm trong các yếu tố đó. 
Tinh thần cao thượng này không có nghĩa là người Mỹ tử tế hơn, tốt hơn, hay thành công hơn người nước khác. Nó chính là cảm nhận của họ về đất nước mình sống. Chính lòng nhiệt thành của họ đối với lý tưởng của Hoa kỳ và ở một điểm nào đó, đã vượt qua được những ngăn cách về màu da, giai cấp, tôn giáo, hay tiến trình lớn khôn. Lý tưởng của người Mỹ là những giá trị như: Tự do, Pháp trị, và Dân chủ. Nó cũng nằm trong quá trình thành đạt của mỗi cá nhân: trọng dụng tài năng, phải siêng năng làm lấy bằng công sức mình. Song có lẽ điều quan trọng nhất trong việc vươn lên nhằm theo đuổi và bảo vệ lý tưởng đó, bạn trong vai trò cá nhân, sẽ xem mình là thứ hạng, đặt quyền lợi của đất nước lên trên hết. Đây là nhân tố khiến cho đất nước cương quyết vượt qua những gian lao thử thách. Đây là nhân tố khiến chiến sĩ Mỹ hy sinh cuộc sống mình. Đây là nhân tố mà mọi người dân Mỹ, dù sang hèn đều sẵn sàng nghiêm chỉnh đứng chào khi bản quốc ca “The Star-Spangled Banner” được trổi lên. Đương nhiên lý tưởng đó không phải lúc nào cũng đạt được, song lúc nào người ta cũng cố gắng thực thi cho bằng được.
Người Mỹ cần hun đúc lòng Tự Tin.
Vài năm tới cốt cách của dân Mỹ sẽ được thử thách thêm một lần nữa. Hoa kỳ dưới sự trị vì của vị tổng thống này cũng chẳng được yêu mến gì hơn so với sự trị vì của các vị tổng thống trước đây. Nhưng nước Mỹ vẫn đáng được lòng tin. Lý tưởng đó, nhờ nó mà người Mỹ có tinh thần lạc quan, làm được thành tích mới, xứng đáng được trân quý và kỳ vọng. Lòng tự tin là một món quà quí nhất của một quốc gia có thể có. Thế giới đang chuyển mình đổi thay. Một vài cường quốc mới bắt đầu xuất hiện. Nhưng điều đó không làm suy giảm nhu cầu phải có lý tưởng của dân Mỹ. Lý do này do vậy càng xác định lại lý tưởng của Hoa kỳ, nó được tái sinh và minh định trách nhiệm cần thiết của nó. Bao giờ cũng hay có cách thử nghiệm rất bình dân về vị thế của một quốc gia: xem thử dân chúng có còn muốn nhập cư, hay muốn rút ra khỏi quốc gia này.Tôi nghĩ chúng ta biết câu trả lời trong tình huống của Hoa kỳ, lý tưởng và tôn chỉ do đó chính là nguyên do.
Có một người bạn kể cho tôi nghe chuyện này, cha mẹ anh là người di dân sang Mỹ lập nghiệp. Họ là người gốc Do Thái ở Âu châu đến Mỹ để tìm sự an bình. Cha mẹ anh định cư, và sinh sống ở New York. Gia đình không thuộc vào hàng khá giả cho lắm. Cha của anh chết lúc anh còn nhỏ. Mẹ của anh tiếp tục sống nuôi con. Sau một thời gian, anh lớn lên, trưởng thành và trở nên giàu có. Anh thường mời mẹ anh đi chơi xa, du lịch ngoài nước Mỹ. Nhưng bà chẳng bao giờ chịu đi đâu cả. Cuối cùng đến khi cụ mất, gia đình đi tìm cái hộp đựng nữ trang của cụ, cất gởi trong tủ sắt của ngân hàng. Trong hộp này, con cháu còn tìm thấy một cái hộp nhỏ khác. Hộp này không có chìa khoá. Vì vậy họ phải dùng khoan để mở ra. Họ thắc mắc không hiểu bà cụ để món nữ trang quí giá gì ở trong đó. Mở được nắp hộp ra. Trong đó có nhiều lớp giấy bao nữa, và cuối cùng là một bao thơ. Mọi người tò mò, hồi hộp không hiểu trong bao thơ đó có cái gì. Bao thơ đó đựng chứng chỉ trở thành Công Dân Mỹ của bà cụ. Ngoài ra, không có gì khác. Chứng chỉ trở thành công dân Mỹ của bà cụ được cụ quí trọng như bảo vật, quí hơn bất cứ loại báu vật nào của cụ. Vâng, trở thành công dân Mỹ là điều bà cụ trân quý nhất. Ngày nay, nước Mỹ cũng nên quí trọng đất nước, dân chúng của mình như vậy.
Thái-Anh phỏng theo Time ngày 13/9/2010


Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

Hội Tam Điểm [*]

"...Thuở ấy “Tuấn kiệt như sao buổi sớm, anh tài như lá mùa thu”, cha ông chúng ta phải mò mẫm trên từng bước đường. Không có gì phải “dấu diếm” hay “hổ thẹn” khi nói rằng: Nguyễn Ái Quốc làm đơn xin học Trường Thuộc Địa hay gia nhập Hội Tam Điểm hay tham gia Đảng Xã Hội Pháp. Và bao nhiêu nhân vật khác từ Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, vua Duy Tân, Trần Trọng Kim, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Phan Long, Nguyễn Văn Thinh, Phạm Ngọc Thạch, Phạm Văn Huyến, Trịnh Đình Thảo, Tạ Thu Thâu, Trần Quang Vinh, Nguyễn Hữu Thọ, Lê Văn Trung, Dương Văn Giáo, Lê Thước... từng là Hội Viên Hội Tam Điểm... "

Thứ Năm, 18 tháng 10, 2012

Một Bắc Triều Tiên Đổi Mới?

Một điều gần như là mình đã "hiển nhiên biết" từ lâu nhưng sao đọc vẫn thấy hay: 
"Trung Quốc sẽ không bao giờ cho phép một Triều Tiên thống nhất hùng mạnh ngay cạnh nhà. Đây là một vấn đề an ninh quốc gia của Trung Quốc, không phải là chuyện giữa Nam và Bắc Triều Tiên. Bắc Triều Tiên phải luôn luôn yếu kém và lệ thuộc vào Trung Quốc như một chư hầu. Bất cứ lãnh tụ Kim, hay Chung hay Choi hay Park gì sẽ được nhắc nhở điều đó khi lên nắm quyền. Đảng CS Trung Quốc không “ngu và mềm yếu” như Liên Xô."