Ảnh: Internet |
Nguồn
bài viết gốc tại đây, nay link không còn nữa. Nếu mình (và tất cả mọi công dân
Việt) đều tuyệt đối tuân thủ Nghị định 72 của Chính phủ thì những bài viết cực
hay thế này vẫn chỉ nằm trong Laptop của một số ít cá nhân mà thôi. Tiếc lắm. Ngày
1-9 là Nghị định có hiệu lực rồi.
Nửa Kia Của Cuộc Đời -
Peter F.Drucker
Thành
công trong nền kinh tế tri thức sẽ đến với những ai hiểu rõ được bản thân mình,
thế mạnh của mình, văn hóa của mình và cách mà mình làm tốt nhất.
Giá trị của tôi là gì?
Để
có thể quản trị bản thân, bạn phải hỏi Giá trị của tôi là gì? Đây không phải là
một câu hỏi thuộc về vấn đề đạo đức. Các quy tắc trong đạo đức giống nhau cho
tất cả mọi người, và thử nghiệm đạo đức cũng đơn giản. Tôi gọi đó là “thử
nghiệm phản chiếu”.
Trong
những năm đầu của thế kỉ trước (thế kỉ XX), nhà ngoại giao được tôn trọng nhiều
nhất trong tất cả các nước lớn chính là ngài đại sứ Đức tại London . Rõ ràng ông được sinh ra để dành cho
những điều vĩ đại - ít nhất là trở thành Bộ trưởng bộ ngoại giao, nếu như chưa
nói đến chức Thủ tướng. Tuy vậy, năm
1906 ông đột ngột từ chức chứ không chịu làm chủ tọa một buổi ăn tối được chuẩn
bị bởi lực lượng ngoại giao cho vua Edward VII. Vị vua này khét tiếng là một
người lăng nhăng với phụ nữ và đã nói rõ ra ý đồ muốn buổi tối được tổ chức
theo ý vua. Người ta kể lại rằng ngài đại sứ đã nói: “Tôi từ chối nhìn một gã
ma cô trong gương vào buổi sáng khi tôi cạo râu”.
Đó
chính là thử nghiệm phản chiếu. Đạo đức đòi hỏi bạn phải tự hỏi chính mình: “Tôi muốn nhìn tôi là loại người nào trong
gương vào buổi sáng?”. Những điều được cho là hành vi có đạo đức ở một loại
tổ chức hay tình huống thì cũng là hành vi có đạo đức ở loại tổ chức hay tình
huống khác. Nhưng đạo đức cũng chỉ là một phần của hệ thống giá trị, đặc biệt
đối với hệ thống giá trị của một tổ chức.
Một người làm việc trong
một tổ chức có hệ thống giá trị không thể chấp nhận được hoặc không phù hợp với
hệ thống giá trị của người này sẽ dẫn đến sự thất vọng và hoạt động không có
kết quả.
Hãy
xem xét kinh nghiệm của một chuyên viên nhân sự rất thành công làm việc tại một
công ty bị mua lại bởi một tổ chức khác lớn hơn. Sau vụ mua lại, cô này được đề
bạt làm những việc cô làm tốt nhất, bao gồm cả việc tuyển chọn con người vào
những vị trí quan trọng. Chuyên viên này hoàn toàn tin rằng một công ty chỉ nên
tuyển người vào những vị trí như vậy từ bên ngoài nếu trong nội bộ công ty
không thể tìm được người thích hợp. Nhưng công ty mới của cô lại tin rằng đầu
tiên cần nên tìm người ở ngoài công ty để có thể mang lại làn gió mới cho công
ty. Có nhiều điều cần phải bàn đến cho cả hai phương pháp, nhưng theo kinh
nghiệm của tôi tốt hơn hết nên áp dụng cả hai. Cô này và công ty đã cơ bản
không phù hợp với nhau về giá trị (chứ không phải về chính sách). Họ bày tỏ
những quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa tổ chức và con người; quan điểm
khác nhau về trách nhiệm của một tổ chức đối với con người của tổ chức và sự
phát triển của họ; và quan điểm khác nhau về những đóng góp quan trọng nhất của
cá nhân cho doanh nghiệp. Sau vài năm thất vọng, cuối cùng cô cũng rời khỏi
công ty với một mức tổn thất đáng kể. Những giá trị của cô và những giá trị của
tổ chức chỉ đơn giản là không phù hợp với nhau.
Tương
tự như vậy, một công ty dược phẩm cố gắng để đạt được kết quả có thể bằng cách
thực hiện các cải tiến nhỏ và liên tục hoặc bằng cách tạo ra một số ít các bước
ngoặt với chi phí và rủi ro cao. Việc áp dụng phương pháp nào cơ bản không phải
là một câu hỏi về kinh tế. Kết quả của cả hai chiến lược có thể rất giống nhau.
Xét về bản chất, có sự xung đột giữa hệ thống giá trị coi sự đóng góp của công
ty là giúp các bác sỹ thực hiện tốt hơn phần việc của mình và hệ thống giá trị
hướng đến các khám phá khoa học.
Một
doanh nghiệp nên hoạt động vì các kết quả ngắn hạn hay tập trung vào các mục
tiêu dài hạn cũng là vấn đề giá trị. Các nhà phân tích tài chính tin rằng các
doanh nghiệp có thể hoạt động phục vụ cho đồng thời cả hai mục tiêu. Những
doanh nhân thành công hiểu biết về điều này tốt hơn. Để chắc chắn, mỗi công ty
tạo ra được kết quả trong ngắn hạn. Nhưng trong mối xung đột giữa kết quả trong
ngắn hạn và tăng trưởng trong dài hạn, mỗi công ty cần phải xác định thứ tự ưu
tiên cho riêng mình. Điều này căn bản không phải là sự bất đồng về kinh tế học.
Nó căn bản là một xung đột giá trị liên quan đến chức năng của một doanh nghiệp
và trách nhiệm của ban quản trị.
Các
xung đột giá trị không chỉ giới hạn trong các tổ chức kinh doanh. Một trong
những nhà thờ miền quê tăng trưởng nhanh nhất nước Mỹ đánh giá thành công dựa
vào số lượng giáo dân mới. Lãnh đạo nhà thờ này tin rằng số lượng người mới
tham gia và giáo đoàn mới là điều quan trọng. Thiên Chúa sẽ chăm lo nhu cầu về
tâm linh hay ít ra một phần vừa đủ nhu cầu tâm linh của họ. Một nhà thờ phúc âm
miền quê khác lại tin rằng điều quan trọng phải là sự phát triển tâm linh. Nhà thờ này không tính những người đi nhà
thờ nhưng không tham gia đời sống tâm linh.
Một
lần nữa, đây không phải là vấn đề của các con số. Nếu chỉ nhìn sơ qua, dường
như nhà thờ thứ hai tăng trưởng chậm hơn. Nhưng thực sự nó lại giữ chân được
phần lớn hơn những người mới đến so với nhà thờ thứ nhất. Điều này có nghĩa là
sự tăng trưởng của nó vững chắc hơn. Đây cũng không phải là vấn đề thứ yếu hay
lý thuyết.
Đây
là vấn đề giá trị. Trong một lần tranh luận công khai, một mục sư cho rằng “Nếu
đầu tiên bạn không đến nhà thờ thì bạn sẽ không bao giờ tìm thấy cánh cổng đi
vào vương quốc của Thiên đường”.
Nhưng
một mục sư khác lại không cho là như vậy, ông này nói “Cho đến khi bạn chưa
nhìn thấy cánh cổng của Thiên đường thì bạn chưa thuộc về nhà thờ”.
Cũng giống như con người,
các tổ chức cũng có giá trị. Để làm việc hiệu quả trong một tổ chức, giá trị
của mỗi người phải phù hợp với giá trị của tổ chức. Không nhất thiết hai giá
trị này phải hoàn toàn giống nhau nhưng chúng phải đủ gần gũi để có thể cùng
tồn tại. Nếu không, người ta sẽ không những cảm thấy thất vọng mà còn chẳng tạo
ra được kết quả gì cho tổ chức.
Các
điểm mạnh của một người và cách người đó thực hiện hiếm khi mâu thuẫn với nhau,
hai điều này là bổ sung cho nhau. Nhưng
đôi lúc cũng có mâu thuẫn giữa giá trị và điểm mạnh của một người. Những gì một
người làm tốt, thậm chí là rất tốt và thành công, có thể không phù hợp với hệ
thống giá trị của người đó. Trong trường hợp này, công việc dường như không
đáng để người này cống hiến cả đời (hay là một phần lớn của cuộc đời).
Cho
phép tôi được kể một chút về cá nhân tôi. Cách đây nhiều năm, tôi phải quyết
định lựa chọn giữa giá trị của mình và những việc tôi làm thành công. Tôi làm
rất tốt trong vai trò của một nhân viên ngân hàng phụ trách đầu tư ở Luân Đôn
vào giữa những năm 1930. Công việc này rất thích hợp với các điểm mạnh của tôi.
Tuy nhiên, tôi lại thấy mình không có khả năng cống hiến ở vị trí giám đốc quản
lý tài sản. Tôi nhận ra rằng, con người
mới chính là điều mà tôi đánh giá cao, và tôi thấy thật là vô nghĩa để trở
thành người giàu có nhất ở giữa nghĩa địa. Tôi đã không có tiền và không có
triển vọng cho công việc. Mặc cho suy thoái kinh tế liên tục xảy ra, tôi đã xin
nghỉ việc, và đó là một điều đúng đắn mà tôi đã làm. Nói theo cách khác, giá
trị là và nên là thử nghiệm cao nhất.
Tôi thuộc về lĩnh vực nào?
Có
rất ít người sớm biết được họ thuộc về lĩnh vực nào. Các nhà toán học, nhạc sĩ,
hay đầu bếp thường biết mình là nhà toán học, nhạc sĩ, đầu bếp khi họ mới chỉ 4
hay 5 tuổi. Các bác sỹ thường quyết định nghề nghiệp ở độ tuổi từ 10 đến 20,
nếu không muốn nói là có thể sớm hơn. Nhưng
hầu hết tất cả mọi người, đặc biệt là những người có năng khiếu cao, thường
không biết họ thực sự thuộc về lĩnh vực nào cho đến khi họ vượt qua độ tuổi 25.
Vào
thời điểm đó, họ nên biết được câu trả lời cho ba câu hỏi sau: Điểm mạnh của
tôi là gì? Tôi thực hiện bằng cách nào? và Giá trị của tôi là gì? Và sau đó họ
nên và có thể quyết định họ thuộc về lĩnh vực nào.
Hay đúng hơn, họ nên quyết
định xem họ không thuộc về những lĩnh vực nào. Một người khi đã biết rằng mình không
thể làm tốt trong một tổ chức lớn thì nên học cách từ chối những vị trí trong
tổ chức lớn. Một người khi đã biết mình không phải là người ra quyết định thì
nên học cách từ chối một nhiệm vụ cần đến việc ra quyết định. Một người như
tướng Patton thì nên học cách để từ chối vị trí tư lệnh độc lập (có lẽ Patton
cũng không tự nhận biết được điều này).
Quan
trọng không kém, biết được câu trả lời cho những câu hỏi này sẽ giúp một người
ứng xử được với một cơ hội, một lời đề nghị, hay một nhiệm vụ:
“Vâng,
tôi sẽ làm điều đó. Nhưng đây mới là cách mà tôi làm. Đây mới là cách mà nó nên
được tổ chức. Đây mới là cách mà các mối quan hệ nên là. Đây mới là những kiểu
kết quả mà anh nên kì vọng từ bản thân tôi trong khung thời gian như thế này,
bởi vì điều này chính là tôi.”
Những
sự nghiệp thành công không bao giờ được lên kế hoạch trước. Chúng được phát
triển khi con người chuẩn bị cho cơ hội bởi vì họ biết được điểm mạnh, phương
pháp làm việc và giá trị của mình. Việc
biết được lĩnh vực mà một người thuộc về có thể giúp người này chuyển từ một
con người bình thường (làm việc chăm chỉ và có năng lực nhưng vẫn bình thường)
thành một con người nổi bật.
Tôi nên đóng góp những gì?
Trong
quá khứ, đại đa số mọi người đều không đặt ra câu hỏi Tôi nên đóng góp những
gì? Họ được chỉ bảo cần phải đóng góp những gì. Nhiệm vụ có thể được giao bởi
chính bản thân công việc như đối với trường hợp người nông dân hay thợ thủ
công, hay có thể được giao bởi những ông chủ hay bà chủ, như trong trường hợp
của người giúp việc trong nhà. Cho tới những năm gần đây, hầu như ai cũng biết
rằng hầu hết những người cấp dưới đều làm theo những gì họ được chỉ bảo. Ngay
cả vào những năm 1950 và 1960, những người lao động trí thức mới (có thể gọi là
những con người của tổ chức) vẫn còn nhờ vào bộ phận nhân sự trong công ty họ
để đưa ra kế hoạch cho sự nghiệp của mình.
Nhưng
đến cuối những năm 1960, không ai còn muốn được chỉ bảo những gì cần phải làm.
Những người đàn ông và phụ nữ trẻ tuổi bắt đầu đặt câu hỏi Tôi muốn làm gì? Và những gì họ nghe thấy được
chính là: phương thức đóng góp chính là hãy làm những công việc của chính bạn.
Nhưng giải pháp này cũng sai lầm giống như sai lầm của những người lao động trí
thức mới. Có những người tin rằng mỗi người làm công việc của chính mình sẽ đưa
đến kết quả đóng góp, tự hoàn thành công việc và thành công. Trong số những
người này, có rất ít người đạt được thậm chí một trong ba điều đó.
Nhưng
điều này cũng không có nghĩa là nên quay lại với cách làm cũ là làm theo những
lời chỉ bảo hay những công việc được giao. Những người lao động trí thức nói
riêng cần phải học cách đặt ra một câu hỏi mà trước đây chưa từng được đặt ra:
Những
đóng góp của tôi nên là gì? Để trả lời câu hỏi này, họ phải xem xét ba yếu tố
riêng biệt:Vị trí của mình yêu cầu những gì? Với những điểm mạnh của mình, cách
thực hiện của mình, và giá trị của mình, làm thế nào để tôi có thể đóng góp
nhiều nhất cho những công việc cần phải làm? Và sau cùng, những kết quả nào cần
phải đạt được để tạo ra sự khác biệt?
Hãy
xem xét kinh nghiệm của một nhà quản trị bệnh viện vừa mới được bổ nhiệm. Đây
là một bệnh viện lớn và uy tín, nhưng danh tiếng của nó đang xuống cấp dần
trong 30 năm qua. Nhà quản trị mới đã quyết định rằng ông nên đóng góp thiết
lập một tiêu chuẩn dịch vụ hoàn hảo trong một khu vực quan trọng trong vòng một
năm. Ông đã chọn tập trung vào phòng cấp cứu. Đây là một phòng lớn, dễ nhìn và
còn khá lộn xộn. Ông đưa ra quyết định rằng mỗi khi có bệnh nhân được đưa vào
phòng cấp cứu thì trong vòng 60 giây phải có một y tá đủ trình độ đến chăm sóc.
Trong vòng 12 tháng, phòng cấp cứu của bệnh viện này trở thành hình mẫu cho tất
cả các bệnh viện trên nước Mỹ. Và sau 2 năm nữa, toàn bộ các bộ phận của bệnh
viện đã được thay đổi.
Cũng
như những điều rút ra được từ ví dụ trên, một kế hoạch nếu có tầm nhìn quá xa
thì sẽ trở thành không thể. Một kế hoạch thường không thể vừa bao quát hơn 18
tháng mà vừa rõ ràng vừa cụ thể. Vì vậy, câu hỏi đặt ra trong đa số các trường
hợp là Làm thế nào và ở đâu tôi có thể đạt được kết quả tạo ra sự khác biệt
trong vòng một năm rưỡi tới? Câu trả lời là sự kết hợp của nhiều thứ. Đầu tiên,
các kết quả đề ra nếu muốn đạt được cần phải có nhiều nỗ lực, hay các kết quả
nên được “nới thêm ra”, theo cách nói thông thường. Nhưng kết quả cũng cần phải
nằm trong tầm với. Vươn tới những kết quả không thể đạt được, hoặc có thể đạt
được nhưng trong những hoàn cảnh khó xảy ra, không phải là thể hiện sự tham
vọng, điều này chỉ thể hiện sự ngu ngốc. Thứ hai, các kết quả cần phải có ý
nghĩa. Chúng nên tạo ra được một điều khác biệt. Cuối cùng, kết quả nên nhìn
thấy được, và nếu có thể, nên đo lường được. Từ những điều này có thể đưa ra
những quy tắc hành động: làm cái gì, xuất phát ở đâu và như thế nào, mục tiêu
và giới hạn thời gian là gì.
Trách nhiệm đối với các mối
quan hệ
Có
rất ít người có thể tự làm việc và tự đạt được kết quả. Những người này bao gồm
nhiều nghệ sỹ lớn, nhiều nhà khoa học lớn, và nhiều vận động viên lớn. Hầu hết mọi người làm việc với người khác
và trở nên hiệu quả khi làm việc với người khác. Điều này đúng cho cả
trường hợp họ là thành viên trong một tổ chức hay được thuê làm việc một cách
độc lập. Quản trị bản thân đòi hỏi trách
nhiệm đối với các mối quan hệ. Điều này có hai phần.
Phần
thứ nhất là phải chấp nhận sự thật rằng cũng giống như bạn, mỗi con người là
một cá nhân khác nhau. Họ luôn duy trì cư xử theo cách của họ. Điều này có
nghĩa là họ cũng có những điểm mạnh riêng của họ, có cách làm việc riêng của
họ, có những giá trị của riêng mình. Do đó, để làm việc hiệu quả, bạn cần phải biết được điểm mạnh, cách làm việc,
và giá trị của đồng nghiệp của bạn.
Điều
này xem ra có vẻ đơn giản, nhưng có ít người chú ý tới điều này. Một cách điển
hình, nếu một người được huấn luận để viết báo cáo trong nhiệm vụ đầu tiên của
mình thì bởi vì sếp của người này chính là một người đọc. Ngay cả nếu người sếp
tiếp theo của người này là một người nghe mà người này vẫn tiếp tục viết báo
cáo như trước thì kết cục sẽ không tạo ra được kết quả gì. Người sếp mới này sẽ
nghĩ ngay là nhân viên này không có kiến thức, không có năng lực, lười biếng,
và sớm muộn gì cũng sẽ thất bại. Nhưng điều này có thể tránh được nếu người
nhân viên chịu quan sát sếp mới của mình và phân tích cách thực hiện của người
này.
Người sếp không phải là một
chức danh trong sơ đồ của một tổ chức và cũng không phải là một “chức năng”. Họ
là những cá nhân và được phép làm việc theo cách mà họ làm tốt nhất. Phận sự
của những người làm việc với họ là phải quan sát họ, tìm hiểu cách họ làm việc,
và tự điều chỉnh để làm cho những người sếp có hiệu quả cao nhất. Thực sự, đây
chính là bí mật của việc “quản lý” sếp của mình.
Điều
này vẫn đúng khi áp dụng với tất cả đồng nghiệp của bạn. Mỗi người làm việc
theo cách của họ chứ không phải cách của bạn. Và mỗi người được phép làm việc
theo những cách của riêng họ. Điều quan trọng là họ thực hiện bằng cách nào và
giá trị của họ là gì. Hầu như mỗi người đều có một cách thực hiện khác nhau. Điều bí mật đầu tiên của tính hiệu quả
chính là hiểu được những người mà bạn làm việc chung hay phụ thuộc vào để từ đó
có thể khai thác được những điểm mạnh của họ, cách họ làm việc, và giá trị của
họ. Các mối quan hệ công việc dựa trên bản thân con người cũng nhiều như
dựa trên chính bản thân công việc.
Phần
thứ hai của trách nhiệm đối với các mối quan hệ chính là phải có trách nhiệm
giao tiếp. Bất cứ khi nào tôi, hay bất cứ một nhà tư vấn nào khác, bắt đầu làm
việc với một tổ chức, điều đầu tiên tôi nghe thấy là tất cả những mâu thuẫn
tính cách cá nhân. Hầu hết những điều này phát sinh từ thực tế rằng người ta
không biết những người khác đang làm gì và cách những người này làm việc, hoặc
những đóng góp nào mà những người khác tập trung vào và họ kì vọng những kết
quả nào. Và họ không biết những điều này bởi vì họ đã không hỏi, và do đó không
nhận được câu trả lời.
Không
nắm những thông tin cần thiết phản ánh sự ngớ ngẩn của con người hơn là phản
ánh lịch sử con người. Mãi đến gần đây, người ta cảm thấy không cần thiết phải
nói những điều này với người khác. Trong các thành phố thời trung cổ, mọi người
trong một quận đều làm công việc buôn bán giống nhau. Ở các miền quê, trong
cùng một thung lũng mọi người canh tác cùng một vụ mùa ngay sau khi lớp băng
tuyết tan ở mặt đất tan ra hết. Ngay cả khi có vài người làm một mình những
việc không giống với những người khác lắm thì họ cũng không kể cho người khác
nghe họ đang làm gì.
Ngày
nay đại đa số mọi người làm việc với những người khác, những người có những
phận sự và trách nhiệm khác nhau. Một vị phó giám đốc marketing có thể xuất
phát từ bán hàng và biết tất cả mọi thứ về bán hàng, nhưng cô ấy lại không biết
điều gì về những điều mà cô ấy chưa bao giờ làm như định giá, quảng cáo, đóng
gói và những thứ như thế. Vì vậy, những người làm những phần này phải chắc chắn
rằng vị phó giám đốc marketing của họ hiểu những gì họ đang cố gắng làm, tại
sao họ lại cố gắng làm những điều đó, họ làm những điều đó bằng cách nào, và
những kết quả được kì vọng là gì.
Nếu
vị phó giám đốc marketing không hiểu những gì những chuyên viên với kiến thức
sâu sắc này đang làm, căn bản đó là lỗi của họ, chứ không phải lỗi của cô ấy.
Họ đã không chỉ cho cô ấy công việc của họ. Ngược lại, vị phó giám đốc
marketing phải có trách nhiệm đảm bảo rằng tất cả những cộng sự của cô hiểu
được cách cô nhìn nhận về marketing: các mục tiêu của cô là gì, cô làm việc như
thế nào, cô kì vọng gì ở bản thân mình và ở từng người làm việc với cô.
Ngay
cả những người nhận thức được tầm quan trọng của việc chịu trách nhiệm về các
mối quan hệ thường không giao tiếp đầy đủ với những cộng sự của mình. Họ sợ mọi
người sẽ nghĩ họ quá tự tin, tò mò hay ngu ngốc. Họ đã sai. Bất cứ khi nào một
người đến chỗ làm việc của cộng sự của mình và nói rằng “Đây là những thế
mạnh của tôi. Đây là cách tôi làm việc.
Đây là những giá trị của tôi. Đây là những đóng góp mà tôi lên kế hoạch tập
trung vào, và đây là những kết quả mà tôi được kì vọng sẽ đạt được”, câu trả
lời sẽ luôn như thế này “Đây là điều hữu
ích nhất. Nhưng tại sao anh lại không nói điều đó sớm hơn nhỉ?”.
Và
một người sẽ nhận được cùng một cách phản ứng (không có ngoại lệ nào cả theo
kinh nghiệm của tôi) nếu người này tiếp tục hỏi “Và tôi cần phải làm gì để biết
những điểm mạnh của anh, cách anh làm việc, giá trị của anh, và những đóng góp
được đề xuất?”. Thực tế, người lao động tri thức nên đặt câu hỏi này với tất cả
những người họ làm việc với, bao gồm cả những người cấp dưới, cấp trên, bạn
đồng nghiệp, hay là một người trong nhóm làm việc. Một lần nữa, mỗi khi bạn đặt
ra câu hỏi này, phản ứng sẽ luôn luôn là “Cảm ơn vì đã hỏi tôi. Nhưng tại sao
anh không hỏi tôi sớm hơn nhỉ?”.
Các
tổ chức ngày nay không còn được xây dựng dựa trên quyền lực hay sự tin tưởng
nữa. Tồn tại sự tin tưởng giữa mọi người không nhất thiết có nghĩa là họ thích
nhau. Điều đó chỉ có nghĩa là họ hiểu nhau. Vì vậy, chịu trách nhiệm về các mối
quan hệ là một điều rất cần thiết. Nó là một trách nhiệm. Cho dù ta là thành
viên của một tổ chức, hay là một nhà tư vấn của tổ chức, một nhà cung cấp, hay
là một nhà phân phối, ta cần phải chịu trách nhiệm đối với các cộng sự của
mình: những người mà ta phụ thuộc vào công việc của họ cũng như họ phụ thuộc
vào công việc của ta.
Nửa kia của cuộc đời
Khi
công việc đối với nhiều người chỉ có nghĩa là lao động chân tay thì không cần
thiết phải lo lắng về nửa kia của cuộc đời. Đơn giản bạn chỉ cần tiếp tục làm
những việc bạn đã luôn làm. Và nếu bạn có đủ may mắn để tồn tại sau 40 năm làm
việc chăm chỉ trong nhà máy hoặc đường sắt, bạn sẽ thấy hạnh phúc dành nửa đời
còn lại không làm gì cả. Tuy nhiên, ngày
nay hầu hết công việc đều là công việc đòi hỏi trí thức, và người lao động trí
thức không “kết thúc” sau 40 năm làm việc, họ chỉ cảm thấy chán mà thôi.
Chúng
ta đã nghe nhiều các câu chuyện về sự khủng hoảng ở giữa cuộc đời của các nhà
quản trị. Hầu hết chúng đều là sự nhàm chán. Ở độ tuổi 45, hầu hết các nhà quản
trị đều đã lên tới đỉnh cao trong sự nghiệp kinh doanh của mình, và họ biết
điều đó. Sau 20 năm làm cùng một loại công việc, họ trở nên rất giỏi trong công
việc của mình. Nhưng bây giờ thì họ không học hỏi được gì, hay đóng góp, hay nhận
được thử thách và sự thỏa mãn từ công việc. Và họ vẫn đối mặt với 20 hay 25 năm
làm việc nữa. Đó là lý do tại sao quản trị bản thân ngày càng hướng ta đến vệc
bắt đầu một sự nghiệp thứ hai.
Có ba cách để phát triển
một sự nghiệp thứ hai. Cách thứ nhất đơn giản là bắt đầu một sự nghiệp khác. Thông thường thì việc này đơn giản chỉ là
chuyển từ kiểu tổ chức này sang kiểu tổ chức khác. Chẳng hạn, một nhân viên
kiểm soát bộ phận trong một tổ chức lớn trở thành nhân viên kiểm soát trong một
bệnh viện cỡ vừa. Nhưng càng ngày càng có nhiều người chuyển sang các công việc
hoàn toàn mới: ví dụ, có những nhà quản trị kinh doanh hay nhân viên chính phủ
tham gia vào các bộ ở tuổi 45, hay có những giám đốc cấp trung rời khỏi công ty
sau 20 năm làm việc để nộp đơn vào học ở một trường luật và trở thành luật sư ở
một thị trấn nhỏ.
Chúng
ta sẽ chứng kiến nhiều người chuyển qua sự nghiệp thứ hai bởi vì họ chỉ thành
công khiêm tốn trong công việc đầu tiên. Những người này đã được trang bị đầy
đủ các kĩ năng và họ đã biết cách làm việc. Họ cần một cộng đồng (ngôi nhà sẽ
trở nên trống rỗng nếu bọn trẻ đi hết ra ngoài) và họ cũng cần có thu nhập.
Nhưng quan trọng hơn cả, họ cần có thách thức.
Cách thứ hai để chuẩn bị
cho nửa sau của cuộc đời là phát triển song song một sự nghiệp khác. Có nhiều người đã rất thành công trong
sự nghiệp thứ nhất của mình vẫn tiếp tục làm những việc mình đã làm, có thể là
toàn thời gian, bán thời gian hay đóng vai trò tư vấn. Nhưng thêm vào đó, họ
tạo thêm một sự nghiệp thứ hai, thông thường là trong một tổ chức phi lợi
nhuận. Công việc này có thể chiếm thêm 10 tiếng làm việc mỗi tuần. Chẳng hạn,
họ có thể tham gia vào công việc quản
trị của nhà thờ, hoặc lãnh đạo hội đồng Hướng đạo sinh dành cho nữ ở địa
phương. Họ có thể tạo ra chỗ nương náu cho phụ nữ bị ngược đãi, làm thủ thư
trong một thư viện công cộng dành cho trẻ em, hay tham gia vào hội đồng của một
trường học,…
Và sau cùng, đó là các
doanh nhân hoạt động xã hội.
Thông thường đây là những người đã rất thành công trong sự nghiệp thứ nhất của mình.
Họ yêu công việc của mình, nhưng không còn cảm thấy thử thách với công việc đó.
Trong đa số các trường hợp, họ vẫn làm những gì họ đã làm nhưng với thời gian
ngày càng ít đi. Họ cũng khởi động những hoạt động mới, thông thường là những
hoạt động phi lợi nhuận. Một người bạn của tôi là Bob Buford là một ví dụ. Anh
ấy đã xây dựng được một công ty truyền hình rất thành công và bây giờ vẫn còn
điều hành nó. Nhưng anh cũng đã thành lập và xây dựng một tổ chức phi lợi nhuận
thành công khác. Tổ chức này làm việc với các nhà thờ đạo tin lành. Và anh ấy
cũng xây dựng một tổ chức khác nhằm giảng dạy cho các doanh nhân hoạt động xã
hội cách quản lý các tổ chức phi lợi nhuận của họ trong khi vẫn điều hành những
hoạt động kinh doanh đầu tiên của họ.
Chỉ có thiểu số người quản
lý nửa sau của cuộc đời. Đa số mọi người “nghỉ hưu trong lúc đang làm việc” và
đếm từng năm cho đến khi họ thực sự được nghỉ hưu. Nhưng thiểu số những người nhìn nhận
thời gian làm việc trong đời dài hơn như là một cơ hội cho chính họ và cho xã
hội sẽ trở thành những nhà lãnh đạo và những hình mẫu.
Có một điều kiện tiên quyết
trong việc quản trị nửa thứ hai của cuộc đời bạn: bạn phải bắt đầu rất sớm
trước khi bạn tham gia.
Cách đây 30 năm, thời gian làm việc trong đời được gia tăng rất nhanh. Rất
nhiều người quan sát (trong đó có cả tôi) tin rằng những người nghỉ hưu sẽ tham
gia ngày càng nhiều vào các tổ chức phi lợi nhuận với vai trò những tình nguyện
viên. Nhưng điều này đã không xảy ra. Nếu
một người không trở thành tình nguyện viên trước khoảng 40 tuổi thì người đó
cũng sẽ không trở thành tình nguyện viên khi vượt qua tuổi 60.
Tương
tự như vậy, tất cả các doanh nhân hoạt
động xã hội mà tôi biết đều bắt đầu làm việc trong tổ chức thứ hai của mình rất
sớm trước khi họ vươn tới được đỉnh cao trong công việc kinh doanh đầu tiên.
Hãy xem xét trường hợp của một luật sư thành công. Ông này là luật sư tư vấn
của một tập đoàn lớn. Gần đây ông cũng đã thành lập nhiều trường học kiểu mẫu
trong bang của ông. Trước đây, ông bắt đầu làm công tác tình nguyện về luật cho
các trường học khi mới chỉ khoảng 35 tuổi. Lúc 40 tuổi thì ông được bầu vào Ban
giám hiệu. Đến lúc 50 tuổi, khi đã kiếm được cả một gia tài, ông khởi động công
ty của chính ông nhằm xây dựng và điều hành những trường học kiểu mẫu. Tuy nhiên,
ông vẫn làm việc hầu như là toàn thời gian trong vai trò lãnh đạo tư vấn tại
công ty mà ông đã làm kể từ lúc còn là một luật sư trẻ tuổi.
Có
một lý do khác để phát triển một mối quan tâm lớn thứ hai và phát triển nó sớm.
Chẳng ai có thể kì vọng rằng mình sẽ sống rất lâu mà không phải trải qua những
đợt thoái trào nghiêm trọng trong cuộc sống cũng như trong công việc. Có những
kĩ sư có năng lực nhưng không được thăng tiến ở tuổi 45. Có những giáo sư đại
học có năng lực nhưng nhận ra rằng ở độ tuổi 42 mình không thể trở thành giáo
sư của một truờng đại học lớn, ngay cả khi người này hoàn toàn có đủ năng lực.
Có những bi kịch cho đời sống gia đình: sự tan rã của một cuộc hôn nhân hay sự
mất mát của một đứa trẻ. Trong những trường hợp như vậy, một mối quan tâm thứ
hai (không đơn giản là một sở thích) sẽ tạo ra sự khác biệt rất lớn. Chẳng hạn,
người kĩ sư bây giờ đã nhận ra rằng mình không thành công lắm trong công việc.
Nhưng trong các hoạt động bên ngoài, một thủ quỹ cho nhà thờ chẳng hạn, anh ta
lại là một người thành công. Một gia đình có thể tan vỡ, nhưng thông qua các
hoạt động bên ngoài, vẫn còn đó cả một cộng đồng.
Trong
một xã hội mà thành công trở thành một điều vô cũng quan trọng, việc có các lựa
chọn khác nhau càng ngày càng trở nên thiết yếu. Trong lịch sử, không có cái gì
được gọi là “thành công” cả. Hầu hết tất cả mọi người không mong cầu điều gì
ngoại trừ “ở đúng vào vị trí của mình”, như lời nguyện cầu của một người Anh
già nua. Sự lưu chuyển duy nhất là sự lưu chuyển đi xuống.
Tuy
nhiên, trong xã hội tri thức, chúng ta mong muốn mỗi người ai cũng thành công.
Nhưng rõ ràng điều này là không thể. Đối với rất nhiều người, tốt nhất là không
nên có thất bại. Nhưng bất cứ chỗ nào có thành công thì chỗ đó cũng phải có
thất bại. Do đó, các cá nhân và gia đình của các cá nhân này nữa cần thiết phải
có một lĩnh vực mà họ có thể cống hiến, tạo ra sự khác biệt, và để được trở
thành một ai đó. Điều đó có nghĩa là phải tìm kiếm một lĩnh vực thứ hai (tạo
dựng một sự nghiệp thứ hai, một sự nghiệp song song, hay trở thành một doanh
nhân hoạt động xã hội) để có cơ hội được trở thành lãnh đạo, được tôn trọng và
được thành công.
Những
thử thách của quản trị bản thân khá rõ ràng, nếu như không muốn nói là sơ đẳng.
Và câu trả lời đã trở nên quá rõ ràng, không thể giả bộ ngây thơ không biết
được. Nhưng quản trị bản thân cần đến những điều mới mẻ và chưa từng xảy ra từ
cá nhân, và đặc biệt từ người lao động tri thức. Trên thực tế, quản trị bản thân đòi hỏi mỗi người lao động trí thức
phải suy nghĩ và cư xử như một giám đốc điều hành. Thêm nữa, sự chuyển đổi
từ những người lao động chân tay làm những gì họ được chỉ bảo sang những người
lao động trí thức tự quản trị bản thân mình thách thức một cách sâu sắc trong
cấu trúc của xã hội. Trong tiềm thức của
mỗi xã hội, cho dù là trong xã hội đề cao cá nhân nhiều nhất, có hai điều dường
như là hiển nhiên: các tổ chức sống lâu hơn người lao động và hầu hết mọi người
đều ở trong một vị trí cố định.
Nhưng điều ngược lại mới
đúng trong xã hội ngày nay. Những người lao động trí thức sống lâu hơn các tổ
chức, và họ sống rất lưu động. Do đó, nhu cầu quản trị cá nhân đang tạo nên một
cuộc cách mạng trong đời sống con người./.
Phạm
Phước dịch từ Peter F.Drucker, “Managing Oneself”, Havard Business Review, 1999
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét